Một chiến lược Biển Đông
của Hải Quân Trung Tá
Nguyễn Mạnh Trí
Trần
Bình Nam (giới thiệu)
Ngày
24/4/2013 Đoàn làm phim tài liệu về chủ quyền biển đảo Việt Nam do sáng kiến
của đài truyền hình HTV tại Sài Gòn đã phỏng vấn Hải Quân Trung Tá Nguyễn Mạnh Trí tại quận Cam (Orange County),
California.
Cuộc phỏng
vấn do trưởng đoàn Phạm Xuân Nghị và chuyên viên Trần Đức Anh Sơn, cố vấn nội
dung thực hiện đã được Trung Tá Trí post trên mạng “Tranh chấp Biển Đông”
Cuộc phỏng
vấn phản ảnh một sự hiểu biết sâu sắc về nhu cầu bảo vệ biển đảo của Đoàn phỏng
vấn cũng như của người được phỏng vấn.
Ngoài ra nội
dung các câu trả lời của Trung tá Nguyễn Mạnh Trí cho thấy cái nhìn chiến lược
xuyên suốt trên toàn diện bức tranh tranh chấp Biển Đông giữa Trung quốc và
Việt Nam của ông, một cái nhìn hướng về tương lai, chủ quyền và sự vẹn toàn
lãnh thổ của đất nước vượt lên trên những khác biệt đang còn tranh cãi – những
tranh cãi cần thiết- giữa chính quyền trong nước và người Việt sống tại hải
ngoại.
Được biết
Trung Tá Nguyễn Mạnh Trí là sĩ quan Hải quân khóa 10 (trong 26 khóa SQHQ được
đào tạo tại trường Sĩ quan Hải Quân Nha Trang) tốt nghiệp năm 1962. Các sĩ quan
liên hệ đến trận Hoàng Sa gồm: Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, khóa 4/SQHQ tốt
nghiệp năm 1954, chỉ huy và giám sát trận đánh từ Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng I;
Đại Tá Hà Văn Ngạc, khóa 5 tốt nghiệp năm 1955 từ soái hạm HQ5 trực tiếp chỉ
huy trận hải chiến. Bốn vị hạm trưởng các chiến hạm HQ4, HQ5, HQ10, HQ 16 tham
chiến xuất thân từ các Khóa 10, 11 và 12.
Trung Tá
Nguyễn Mạnh Trí là chủ quản của diễn đàn điện tử “Tranh Chấp Biển Đông”. Ông
hiện sống tại quận Cam, California ./.
--:o0o:--
Câu hỏi phỏng vấn ông Nguyễn Mạnh Trí
(Ngày 24/4/2013 tại California)
Sau đây là phần phỏng vấn giữa tác giả
và Đoàn làm phim tài liệu về Chủ quyền biển đảo Việt Nam. Đạo diễn: Lâm Thành
Quí - Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTV).
Lời nói đầu
của ông NMT trước cuộc phỏng vấn:
Chào mừng đồng bào quốc nội.
1. Để
bảo vệ cho hành động xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, Trung Quốc thường
viện dẫn công hàm do ông Phạm Văn Đồng, Thủ tướng của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ký vào năm 1958 công nhận về chủ quyền lãnh hải 12 hải lý của Trung
Quốc, coi đó là văn bản pháp lý của Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các đảo trong biển Đông. Vậy ông
đánh giá thế nào về nội dung và tính pháp lý của Công hàm 1958 này?
Chúng ta cần phân tích công hàm này
trên hai phương diện Nội dung và Pháp lý.
Về
nội dung, công hàm này rất ngắn gọn, chỉ tuyên bố “Chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của
Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về hải phận của Trung Quốc” và “có
trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc”. Công hàm này
không nói gì về Hoàng Sa và Trường Sa .
Về
mặt pháp lý thì trong thời điểm 1958, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và
Việt Nam Cộng Hòa là 2 quốc gia có chủ quyền riêng biệt và Hoàng Sa cũng như
Trường Sa trực thuộc VNCH. Một quốc gia này không có thẩm quyền pháp lý khi bàn
về chủ quyền của một quốc gia khác.
2. Được
biết ông là một người quan tâm đến trận hải chiến của quân lực Việt Nam Cộng
Hòa chống lại sự xâm lược của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa vào ngày
19/1/1974, xin ông cho biết về quá trình tham chiến của quân lực Việt Nam Cộng
Hòa và những diễn biến chính của sự kiện bi hùng này?
Trước hết, tôi xin nói đôi chút về địa lý Hoàng Sa .
Trong thời gian gần đây, Trung Quốc tuyên truyền rất nhiều về thành phố Tam Sa
như mở tuyến du lịch, phát triển hạ tầng cơ sở cũng như tăng cường quân sự để chỉ huy toàn thể Biển
Đông. Thật sự, quần đảo Hoàng Sa chỉ gồm 2 nhóm. Phía Đông là nhóm Tuyên Đức mà
đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm, diện tích chỉ khoảng 2 km² với 1 phi đạo dài 1,500
m, không có nước ngọt, phải tiếp tế từ Hải Nam. Phía Tây là nhóm Nguyệt Thiềm
hay Trăng Khuyết mà đảo lớn nhất là đảo Pattle (Hoàng Sa) diện tích chỉ khoảng
0.3 km².
Trong thời gian 1962-1964, tôi phục vụ ở Hạm Đội, có 1, 2
lần ra Hoàng Sa tiếp tế và thay quân.
Năm 1973, tôi trở lại Hạm Đội, ra công tác ở Trường Sa
khoảng hơn 2 tháng, có lên đảo Nam Yết và Song Tử Tây.
Cuối tháng 11/1973, Đại tá Hà Văn Ngạc và tôi được lệnh
ra Đà Nẳng tăng cường cho V1DH vì tình hình căng thẳng tại Hoàng Sa. Trong
tháng 12/1973 và đầu tháng 1/1974, Trung Quốc tăng gia hoạt động tại Hoàng Sa.
Trước khi nói về trận Hải chiến Hoàng Sa, tôi xin nói đôi
chút về tương quan lực lượng:
Trong thập niên 70, Hải quân Trung Quốc, phần lớn mua hay
đóng dựa theo thiết kế của Liên Xô, tàu nhỏ nhưng khả năng chiến đấu khá tốt.
Tàu nhỏ, tốc độ nhanh, vận chuyển dễ dàng, hỏa lực khá mạnh.
Trong khi đó hải quân VNCH, nhận viện trợ từ Hoa Kỳ, gồm
có các chiến hạm và tàu tuần duyên từ Đệ 2 Thế Chiến, chỉ dùng cho việc tuần
tiểu. Hải quân VNCH có 2 khu trục hạm, hỏa lực mạnh với 2 khẩu 76 ly bắn nhanh,
có hệ thống khóa mục tiêu nhưng trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến không
có vật liệu thay thế. Các tuần duyên hạm có khả năng chịu sóng rất mạnh nhưng
cồng kềnh chỉ dùng cho việc tuần tiểu và cấp cứu.
Hải quân hai nước đều không có kinh nghiệm hải chiến.
Ngày 16/1/1974, Tổng thống Thiệu ra thăm V1DH ra lệnh cho
hải quân được dùng mọi phương tiện, kể cả vũ lực để trục xuất tàu Trung Quốc ra
khỏi Hoàng Sa .
Đại tá Ngạc, đang đi phép tại Sài Gòn, được lệnh khẩn cấp
trở ra Đà Nẵng. Ngày 17/1, ông cùng HQ 5 và HQ 10 ra tăng viện cho HQ 4 và HQ
16 đang bị áp lực nặng nề từ phía Trung Quốc.
Chiều ngày 18/1, 4 chiến hạm VHCH và 6 chiến hạm Trung
Quốc gồm có 4 tàu hộ tống 271, 274, 389,
396 và 2 tàu chở quân 402, 407 vờn nhau trong vùng lòng chảo Hoàng Sa. Tối
18/1, 4 chiến hạm VNCH được lệnh rút ra ngoài, chuẩn bị chiến đấu vào ngày mai.
Vào sáng ngày 19/1, khi các chiến hạm VNCH vào thì các chiến hạm TQ đã chờ sẵn, hai bên ở rất gần nhau, HQ 10 chỉ
cách tàu địch trên dưới 1 ngàn thước. Khoảng 10 giờ sáng, trong lúc tôi đang có
mặt tại Trung tâm Hành quân thì Đô đốc Thoại cho lệnh khai hỏa. Đại tá Ngạc còn
mở máy âm thoại để phòng hành quân theo dỏi diễn tiến trận đánh. Nữa giờ sau đó
là cả một sự hỗn loạn trên máy âm thoại: tiếng ra lệnh, tiếng đạn nổ, tiếng reo
hò của thủy thủ đoàn khi tàu địch trúng đạn. Khoảng 45 phút sau, liên lạc âm
thoại bị gián đoạn, cả một sự im lặng đến rợn người trong phòng hành quân V1DH.
BTL vùng không còn liên lạc được với 4 chiến hạm. Khoảng 2 chiều, TTHQ mới liên
lạc được với HQ 16. HQ 16 cho biết bị trúng đạn, nghiêng 15° nhưng thoát được
ra ngoài, cho biết HQ 10 bị trúng đạn ngay phút đầu giao chiến, bất khiển dụng
tại chổ. Độ 1 giờ sau, phòng hành quân liên lạc được với HQ 4 và HQ 5 cho biết
bị hư hại nhẹ. Cả ba chiến hạm về lại Đà Nẵng vào ngày 20/1.
3. Thưa
ông, vì sao quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã không giữ được Hoàng Sa trong sự kiện
ngày 19/1/1974? Có phải do sự chênh lệch của tương quan lực lượng giữa chúng ta
với kẻ thù hay còn vì lý do nào khác? Có phải chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã
không tiên liệu được việc Trung Quốc sẽ đánh chiếm Hoàng Sa vào năm 1974 nên đã
không cảnh giác đúng mức cần thiết, vì thế chúng ta đã lâm vào thế bị động và
để mất Hoàng Sa vào tay Trung Quốc?
Vào cuối năm 1968, Hoa Kỳ đã để lộ ý định muốn chấm dứt
cuộc chiến Việt Nam và tạm thời hòa hoãn với Trung Quốc để đối đầu với Liên Sô.
Cả hai miền Việt Nam đều chưa hiểu được vị trí chiến lược của Hoàng Sa trong
tương lai. VNCH chỉ gởi ra Hoàng Sa một đại đội Địa phương quân. Hải quân VNCH
cũng không tuần tiểu thường trực tại Hoàng Sa. Trong khi đó, sau khi đạt được
thỏa thuận ngầm với Hoa Kỳ không can thiệp ở Hoàng Sa, Trung Quốc chuẩn bị xâm
chiếm Hoàng Sa ở cấp bậc cao nhất. Tài liệu đã giải mật của
ông Gerald Kosh, người đã theo HQ 5 ra Hoàng Sa cho thấy Trung Quốc đã huấn
luyện đổ bộ từ tháng 7/1973 và Tổng bí thư Đặng Tiểu Bình và Bộ Chính Trị đã
đích thân chỉ huy trận đánh. Hạm đội Nam Hải gồm mấy chục chiến hạm đã túc trực
sẵn giữa Hải Nam và Hoàng Sa .
Thành thử, nếu hải quân VNCH không khai hỏa vào sáng 19/1
thì không sớm thì muộn Trung Quốc cũng tìm cách đẩy hải quân VNCH ra khỏi Hoàng
Sa. Quyết định khai hỏa đã chứng minh chủ quyền của VNCH tại Hoàng Sa. Các
chiến sĩ VNCH đã chiến đấu và hy sinh tại Hoàng Sa năm 1974 cũng như các chiến
sĩ trong trận chiến biên giới 1979 và trận hải chiến tại Trường Sa 1988 để bảo
vệ đảo Gạt Ma đều là anh hùng dân tộc, đáng được đồng bào quốc nội cũng như hải
ngoại tri ân.
4. Thưa
ông, ông có thể cho biết về thái độ và hành động của Hoa Kỳ trong đối với trận
hải chiến Hoàng Sa ngày 19/1/1974? Ông đánh giá thế nào về vai trò của Hoa Kỳ
trong sự kiện này?
Trước trận hải chiến Hoàng Sa 1974, hạm đội Hoa Kỳ vẫn
còn ở vịnh Bắc Việt. VNCH yêu cầu hải quân Hoa Kỳ lập một “Buffer zone” nhưng
không được trả lời. Sau đó, khi được yêu cầu giúp đỡ tìm kiếm bè đào thoát từ
HQ 10, hải quân Hoa Kỳ cũng không tham dự.
Nhưng điều này không có nghĩa là tình hình 1974 giống như
tình hình hiện nay. Quyền lợi của các đại cường Hoa Kỳ-Trung Quốc-Nga Sô không
bao giờ thay đổi, quan niệm bạn thù chỉ là giai đoạn. Quyền lợi của Hoa Kỳ và
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đi song song với nhau. Dù rằng vẫn còn nhiều
trở ngại nhưng những người lãnh đạo 2 nước phải cố gắng biến trở ngại thành cơ
hội để tiến tới một thế liên minh chiến lược.
5. Thưa
ông, xin ông cho biết đánh giá của ông về biến cố này và ý nghĩa của biến cố
này trong lịch sử đấu tranh và bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc Việt Nam?
Theo ông, Việt Nam cần có chiến lược và hành động như thế nào để bảo vệ chủ
quyền biển đảo của Tổ quốc và tránh những mất mát đáng tiếc như đã xảy ra đối
với quần đảo Hoàng Sa?
Biển Đông là một phần trong sự đối đầu
toàn diện giữa một bên là Trung Quốc và bên kia là Hoa Kỳ, các cường quốc Đông
Á (Nhật Bản, Hàn Quốc), Ấn Độ, Úc Đại Lợi và ngay cả Nga Sô và Liên Âu cùng 5
nước Đông Nam Á liên hệ trên mọi phương diện chính trị-ngoại
giao, kinh tế-tài chánh-thương mại và quân sự.
Biển Đông nắm giữ quyền lợi sinh tử
của Trung Quốc về tài nguyên về dầu khí và hải sản và là yết
hầu di chuyển nhiên liệu từ Trung Đông sang Bắc Á. Trung Quốc cố gắng chiếm
Biển Đông bằng mọi cách cho đến khi bị chận lại.
Chiến lược quân sự của Việt Nam phải đi song song với mặt
trận ngoại giao, kinh tế. Trong thời gian gần đây đã có những cố gắng để tăng
cường phòng thủ như mua Su-30 MKV, hỏa tiễn phòng thủ bờ biển, tàu khu trục
Gepard 3.9, tàu ngầm Kilo, phi cơ tuần tra nhưng điều quan trọng nhất là đừng
để Trung Quốc dụ vào thế đối đầu để chiếm thêm các đảo tại Trường Sa. Hệ thống
phòng thủ chỉ được dùng để phản công khi tối cần thiết. Du kích chiến trên biển
có thể áp dụng tại Hoàng Sa. Các ngư dân miền Trung đang ở tuyến đầu trong mặt
trận này. Họ xứng đáng nhận được sự tri ân của toàn dân cả nước. Chiến tranh
phi quy ước trên Biển Đông vẫn còn hiệu lực để đối đầu với nước mạnh hơn. Cuối
cùng thì một thế liên minh quân sự chiến lược với Hoa Kỳ, các cường quốc Đông Á
(Nhật Bản, Ấn Độ, Úc Đại Lợi) và các quốc gia liên hệ tại
Đông Nam Á (Việt Nam và Philippines) chỉ là vấn đề thời gian.
6. Ông
có ý kiến gì để tăng cường sự hiểu biết của đồng bào quốc nội và hải ngoại về
Tranh chấp Biển Đông nhất là tình hình tại Trường Sa.
Hiện nay, sự hiểu biết của đồng bào quốc nội và hải ngoại
về Hoàng Sa và Trường Sa tương đối hạn hẹp. Nếu chúng ta tổ chức được những buổi triễn lảm về tình trạng
chiếm đóng Biển Đông thì đó là điều đáng làm./.
Nguyễn
Mạnh Trí
E-Mail: prototri2012@yahoo.com
Hồ
sơ: NMT-HS-042413-Phong van.doc
Tu chỉnh:
24 tháng 4 năm 2013
--:o0o:--