Bình Thường Hóa Quan Hệ Mậu Dịch

giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc

Trần Bình Nam

Hôm Thứ   24 tháng Năm, sau một ngày thảo luận, Hạ nghị viện Hoa Kỳ biểu quyết chấp thuận bản thỏa ước Bình thường hóa Quan hệ Mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung quốc với 237 phiếu thuận (Cộng hòa 164 phiếu, Dân chủ 73 phiếu) chống 197 (Cộng hòa 57, Dân chủ 138, Độc lập 2) và 1 phiếu trắng (Cộng hòa). Hai ngày trước ngày bỏ phiếu không ai đoán được bản thỏa ước có thể được thông qua hay không.

Kết quả thông qua 237 chống 197 tương đối rộng rãi tại Hạ nghị viện cho thấy Hoa Kỳ bắt đầu có một lập trường về một chính sách toàn cầu và đặc biệt đối với Trung quốc. Cuộc biểu quyết nói lên một ý chí,  mặc dù phe chống việc bình thường hóa quan hệ mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung quốc rất mạnh gồm nhiều nghiệp đoàn chính yếu là Liên Hiệp Nghiệp Đoàn Lao Động Hoa Kỳ AFL-CIO (American Federation of Labor and Congress of Industrial Organizations), và các nhà hoạt động nhân quyền, những người tranh đấu gìn giữ  môi sinh. Nghiệp Đoàn AFL-CIO  quyết liệt chống và dọa sẽ trả thù dân biểu nào bỏ phiếu thuận trong cuộc bầu cử tháng 11 tới. Trong cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đều có người chống kẻ ủng hộ và đây là một cuộc bỏ phiếu không có tính cách đảng phái. Mặc dù đa số dân biểu Dân chủ chống bình thường hóa quan hệ mậu dịch với Trung quốc, chính yếu vì ảnh hưởng của nghiệp đoàn, tổng thống Clinton (Dân chủ) là người tích cực nhất trong cuộc vận động bình thường hóa, và cả hai ứng cử viên tổng thống George W. Bush và Al Gore đều ủng hộ. Tổng thống Clinton cho thành lập một nhóm đặc biệt (war room) điều hành cuộc vận động theo mô thức như cuộc vận động tranh cử tổng thống của ông năm 1992 và một điều chưa từng có trước đây tổng thống nhờ ông Alan Greenspan Chủ tịch Ủy ban Dự Trữ Tiền tệ Liên bang, người từng chứng tỏ khả năng bắt mạch một cách bén nhạy sinh hoạt kinh tế của Hoa Kỳ lên tiếng kêu gọi quốc hội thông qua bản thỏa ước Bình thường hóa Quan hệ Mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung quốc.

Người ta chờ đợi bản thỏa ước sẽ được thông qua một cách dễ dàng tại Thượng viện trong tháng 6 trước khi tổng thống Clinton ký thành luật. Thượng viện hiện nay có khuynh hướng khuyến khích tự do mậu dịch và các Thượng nghị sĩ không bị áp lực mạnh của Liên Hiệp Nghiệp Đoàn như các dân biểu. Có thể Thượng nghị viện sẽ thay đổi đôi chút các điều khoản kèm theo bản văn của bản thỏa ước Bình thường hóa Quan hệ Mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung quốc do Hạ nghị viện đề ra như  thành lập một Ủy ban Quốc hội theo dõi tình trạng nhân quyền tại Trung quốc, dự liệu phương thức bảo vệ một vài ngành kỹ nghệ của Hoa Kỳ có thể bị ảnh hưởng do sự tràn ngập hàng hóa của Trung quốc và tăng thêm 99 triệu cho ngân sách của đài Tiếng Nói Hoa Kỳ và đài Tiếng Nói Tự Do Á châu ("House approves China trade bill" Philadelphia Inquirer May 25, 2000). Nếu thỏa ước bình thường hóa quan hệ mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung quốc thành luật thì đây là lần thứ ba tổng thống Clinton thành công mở rộng thị trường Hoa Kỳ ra nước ngoài và tạo điều kiện quan trọng cho việc mậu dịch hóa toàn cầu. Lần thứ nhất, thỏa ước Nafta (North American Free Trade Agreement) mở rộng giao thương với hai nước láng giềng Canada và Mễ Tây Cơ được thông qua năm 1993,  lần thứ hai  giảm thuế quan cho Phi châu và các nước trong vùng biển Caribbean ban hành đầu năm naỵ Thỏa ước Nafta do sáng kiến của tổng thống Bush và được thông qua nhờ nỗ lực vận động của tổng thống Clinton.  Công cuộc bình thường hóa quan hệ mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung quốc lần này do tổng thống Clinton chủ động và được đa số dân biểu Cộng hòa ủng hộ.

Nội dung cuộc tranh luận nên hay không nên thông qua bản thỏa ước Bình thường hóa Quan hệ Mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung quốc có nhiều điểm tương đồng với cuộc tranh luận năm 1993 về Nafta, bỏ hàng rào quan thuế giữa 3 nước Hoa Kỳ, Canada và Mễ Tây Cợ Liên Hiệp Nghiệp Đoàn chống vì sợ mất công ăn việc làm của công nhân. Những người bảo vệ môi sinh chống vì ngại phát triển bừa bãi làm hỏng mội trường sống.

Nhưng lần này thành phần chống rộng hơn. Những người đấu tranh cho nhân quyền sợ rằng một khi bản thỏa ước Bình thường hóa Quan hệ Mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung quốc được thông qua Hoa Kỳ không còn lợi khí áp lực Trung quốc cải thiện tình trạng nhân quyền. Một số người khác lo lắng cho nền an ninh của Hoa Kỳ, trong đó có nhiều dân biểu và Thượng nghị sĩ Cộng hòa cực hữụ Điều 301 của luật mậu dịch Hoa Kỳ thông qua cách đây 20 năm cho phép Hoa Kỳ đặt vấn đề nhân quyền như một điều kiện để áp dụng thuế quan đặc biệt cho một quốc gia.

Về công ăn việc làm Nghiệp Đoàn cho rằng nhân công Trung quốc rẽ các nhà đầu tư Hoa Kỳ trong các ngành chế tạo vật dụng như áo quần, dụng cụ điện tử và bộ phận rời của xe hơi sẽ chuyển tiền đầu tư sang Trung quốc làm khan hiếm công ăn việc làm tại Hoa Kỳ. Theo Ralph Nader, một người tranh đấu cho quyền lợi của giới tiêu thu,ỳ lương công nhân làm việc cho hãng Huffy, hãng giày Timberland, hãng Alpine ráp stereo cho xe hơi và hãng ráp máy truyền hình RCA ở Trung quốc chỉ được trả tối đa 27 xu mỹ kim một giờ trong khi tại Mỹ ít nhất là 12 mỹ kim một giờ ("Who gains from rise in China trade status?" nhật báo Philadelphia Inquirer May 22, 2000).

Tuy nhiên hiện nay thị trường Mỹ đã mở cho hàng hóa Trung quốc nên bình thường hóa quan hệ mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung quốc trên thực tế là chính thức hóa việc Trung quốc mở cửa thị trường cho hàng hóa và dịch vụ Hoa Kỳ. Việc hằng năm (như trong 20 năm qua) quốc hội   hội đặt vấn đề nhân quyền với Trung quốc thật ra chỉ là hình thức. Nếu Hoa Kỳ chê trách tình trạng nhân quyền tồi tệ ở Trung quốc và tăng thuế quan, Trung quốc sẽ trả đũa bằng cách tăng thuế quan hay cấm nhập cảng một số phẩm vật của Hoa Kỳ. Trung quốc chỉ cần áp dụng biện pháp trả đũa một cách hạn chế cũng ảnh hưởng nhiều đến công ăn việc làm ở Mỹ vì Trung quốc với 1 tỉ 300 triệu dân và sau 20 năm kinh tế thị trường đã có hơn 200 triệu người có mức sống trên trung bình có khả năng tiêu thu, trong đó có 40 triệu người dùng điện thoại bỏ túi không giây ("Who gains from rise in China trade status?" nhật báo Philadelphia Inquirer May 22, 2000).

Quốc hội Hoa Kỳ thông qua thỏa ước Bình thường hóa Quan hệ Mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung quốc trước hết tạo một quan hệ tốt hơn với Trung quốc và qua đó Hoa Kỳ có thể ảnh hưởng đến thái độ của Trung quốc trong một số chính sách của Trung quốc như sự tranh chấp trên biển đông, Đài Loan và ngay cả vấn đề nhân quyền. Ngoài ra bản thỏa ước Bình thường hóa Quan hệ Mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung quốc sẽ làm cho thuế quan của Trung quốc đối với hàng hóa Hoa Kỳ giảm từ 24% xuống 9% từ đây cho đến năm 2005. Trung quốc sẽ bãi bỏ chỉ số nhập cảng và giấy phép nhập cảng, các công ti Hoa Kỳ có quyền mở các cơ sở phân phối và bán lẽ, có quyền có cổ phần lên đến 49% trong các hãng điện thoại, và ngân hàng Hoa Kỳ được hưởng cùng một thứ luật lệ như với các ngân hàng Trung quốc.

Một số người chủ trương cứng rắn hỏi tại sao phải ưu đãi Trung quốc trong lĩnh vực mậu dịch tạo điều kiện cho Trung quốc mau chóng trở thành cường quốc trong khi Trung quốc là một quốc gia có khả năng thù nghịch với Hoa Kỳ. Nhưng một số người khác nghĩ rằng có bình thường hóa quan hệ mậu dịch hay không Trung quốc vẫn trở thành cường quốc, và cô lập Trung quốc chỉ làm tăng cường độ thù nghịch của Trung quốc. Tại Trung quốc thành phần chống bình thường hóa quan hệ mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung quốc là các tướng lãnh chủ chiến và những thành phần nóng lòng muốn Trung quốc trở thành một lực lượng hùng mạnh ngay một sớm một chiều.  Những thành phần này cho rằng bình thường hóa quan hệ mậu dịch với Hoa Kỳ là một thắng lợi của nhóm chủ trương ôn hòa.  Sự nhận định khác biệt về ảnh hưởng lâu dài của việc bình thường hóa quan hệ mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung quốc giải thích tại sao Wei Jingsheng, nhà đấu tranh cho dân chủ Trung quốc đang tị nạn tại Hoa Kỳ chống việc bình thường hóa trong khi lần này một số người Trung quốc đấu tranh cho dân chủ trong nước lên tiếng ủng hộ  ("Confounded by China", The Economist,  May 20, 2000).  Cũng như tháng 7 năm trước khi Việt Nam và Hoa Kỳ sửa soạn ký một bản thỏa ước tương tự, đa số người Việt đấu tranh ở Hoa Kỳ chống việc ký kết cho rằng thỏa ước sẽ giúp cho đảng cộng sản Việt Nam củng cố quyền lực, trong khi bác sĩ Nguyễn Đan Quế, nhà đấu tranh cho dân chủ còn ở trong nước ủng hộ, cho rằng bản thỏa ước tối hậu sẽ giúp đẩy Việt Nam đi vào con đường dân chủ.

Có thể đó là con đường tất yếu của lịch sử trước sức của đảng cộng sản Trung quốc. Không có dấu hiệu gì - ngay cả đối với khuynh hướng ôn hòa trong nội bộ -  đảng cộng sản Trung quốc muốn dân chủ hóa đất nước trong lúc này. Bằng chứng: trong khi thương thuyết bình thường hóa quan hệ mậu dịch với Hoa Kỳ Trung quốc thành lập các chi bộ đảng trong các công ti tư nhân  nói là để lãnh đạo hữu hiệu sự phát triển kinh tế. Nhưng mở rộng mậu dịch với Hoa Kỳ, nhất là gia nhập Tổ chức Mậu dịch Quốc tế (WTO) làm cho chính quyền Trung quốc dù muốn hay không cũng phải quen với cung cách điều hành theo luật pháp. Mậu dịch là lĩnh vực tốt nhất và khả dụng nhất trong giai đoạn này để tiếp cận và nhẹ nhàng đưa Trung quốc vào con đường dân chủ. Nếu diễn biến hòa bình là một hiện tượng có thật, mậu dịch là khí cụ của nó.

Trên căn bản này việc Hoa Kỳ thông qua bản thỏa ước Bình thường hóa Quan hệ Mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung quốc là một biểu quyết quan trọng liên quan đến an ninh của Hoa Kỳ, và ít nhất là bước khởi đầu đi đến một chính sách quốc gia sau một thời gian dài tê liệt vì kết quả của cuộc chiến Việt Nam và nhất là sau khi khối Liên bang Xô viết sụp đổ.

Một câu hỏi được đặt ra. Thỏa ước bình thường hóa quan hệ mậu dịch giữa Việt Nam và Hoa Kỳ bị trục trặc tháng 7 năm trước chừng nào thì lại được khai thông? Nếu, như một thông lệ - ít nhất cho đến lúc này- Trung quốc đi trước, Việt Nam thường nhón nhén theo sau! (May 2000)


Trần Bình Nam

http://www.vnet.org/tbn