Bỏ điều 4 Hiến pháp là sự tái sinh
giá trị lịch sử của đảng cộng sản Việt Nam
Trần Bình Nam
Kể từ ngày đảng cộng sản
Việt Nam chiếm miền Nam đến nay là 32 năm. Cuộc tranh đấu giành tự do dân chủ
và nhân quyền cho đất nước của các tầng lớp dân chúng trong và ngoài nước lúc
cao lúc thấp, nhưng chưa có lúc nào chúng ta nắm được ngọn cờ tiên phong, phát
triển hàng ngũ một cách có tổ chức và làm cho đảng cộng sản cầm quyền thấy có
nhu cầu đối thoại với chúng ta để tìm một giải pháp làm cho đất nước phú cường,
dân sinh hạnh phúc.
Trong khi đó đảng cộng sản
Việt Nam, từ một đảng cách mạng đang dần biến thành một băng đảng “tư bản đỏ”
sống và làm giàu nhờ đầu tư của nước ngoài, mang lại cho đất nước một bề mặt
phát triển kinh tế giả tạo nhưng cơ thể đầy bệnh hoạn.
Nguyên nhân của tình trạng
này thì nhiều, khách quan có, chủ quan có, nhưng phần chủ quan đóng một vai trò
quan trọng. Trước các biến chuyển cơ bản xẩy ra trong thế giới cộng sản vào
cuối thập niên 80s và đầu thập niên 90s của thế kỷ 20 (Đông âu dân chủ hóa,
Liên bang Xô viết sụp đổ), những người đấu tranh dân chủ chúng ta đã không
phóng tầm nhìn tới trước để đưa ra một chương trình đấu tranh hợp lý. Chúng ta
vẫn đấu tranh theo lối cũ (khi thế giới cộng sản còn là một khối thống nhất chủ
trương chinh phục thế giới bằng bạo lực quân sự) nương theo tình cảm của cộng
đồng người Việt tại hải ngoại (đa số là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản) để
hình thành các chương trình đấu tranh, và cứ thế dần dần bị đẩy ra bên lề của
các biến chuyển của thế giới và của đất nước.
Cuộc đấu tranh chống độc
tài nằm trong tay những người cộng sản vốn giỏi về phương pháp (duy trì độc
tài) ắt không đơn giản và có thể thành công trong một sớm một chiều. Nhưng cuộc
đấu tranh này chỉ có thể thành công nếu qua thời gian thế của những người đấu
tranh cho dân chủ càng mạnh và thế của những người độc tài càng yếu. Nói cách
khác là chúng ta phải tạo được một áp lực chính trị càng ngày càng thêm bức
bách lên đảng cộng sản Việt Nam. Tình hình hiện nay ngược lại. Chúng ta không
mạnh, chúng ta chưa có sách lược đấu tranh dài hạn để chuyển đổi chế độ, trong
khi đảng cộng sản Việt Nam chưa có dấu hiệu gì suy sụp, nếu không muốn nói càng
ngày càng được cộng đồng thế giới chấp nhận như một chính quyền có vai vế trên
thế giới dù là một chế độ độc tài đảng trị có mọi mầm mống bất an .
Đã đến lúc chúng ta cần có
một chương trình đấu tranh mũi nhọn
xuyên phá vào thành trì của độc tài.
Chương trình này phải thế nào để không lỗi thời bởi thời gian, có khả năng thuyết phục các lực lượng
dân chủ trên thế giới, và nhất là làm cho những người cộng sản có lòng có thể
chấp nhận.
Ông chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết trong buổi sinh hoạt cuối tháng
8/2007 với các giới chức trong Quân ủy trung ương tại Hà nội nói rằng: “bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát” (và sau
đó ngày 18/9/2007 nói chuyện với binh chủng phòng không ông cũng nhắc lại ý
đó). Ông Triết thuyết phục quân đội đừng nghe người ta “nói ngã nói nghiêng” mà chao đảo đòi bỏ điều 4 Hiến pháp. Sự quả
quyết của ông Triết đã chỉ cho nhân dân đâu là phòng tuyến cuối cùng của đảng,
và cho chúng ta thấy con đường đấu tranh trước mắt: đó là hãy làm một cuộc vận
động toàn diện và triệt để đòi thay đổi thể chế chính trị mà bước đầu (bước đầu trong một quá trình)
là hủy bỏ điều 4 trong bản Hiến pháp hiện hành để thiết lập một chế độ dân chủ
đa nguyên.
Trong các bản Hiến pháp
của các nước cộng sản còn lại trên thế giới (gồm Trung quốc, Bắc Hàn, Cuba và
Việt Nam) đều có một điều khoản minh định đảng cộng sản là đảng chính trị duy
nhất có quyền lãnh đạo quốc gia. Tuy ngôn từ của điều khoản này trong mỗi bản
Hiến pháp khác nhau, nhưng tựu chung đều có mục đích tạo một căn bản hợp hiến,
hợp pháp cho đảng cộng sản “là đảng duy
nhất cầm quyền”. Trong bản Hiến pháp của nước Việt Nam hiện nay (được tu
chính năm 1992 từ bản Hiến pháp năm 1980) điều 4 viết: “Đảng
cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu
trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội ....”
Nguyên văn điều 4 trong
bản Hiến Pháp 1980 như sau: “Đảng cộng
sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham
mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, được vũ trang bằng học thuyết Mác-Lênin,
là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội, là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. ...”
Dựa vào điều 4 đảng cộng
sản Việt Nam nắm quân đội, công an, kiểm soát sinh hoạt kinh tế và các mặt sinh
hoạt tôn giáo và xã hội khác. Từ năm
1986 trước sự sụp đổ không tránh được của khối Liên bang Xô viết đảng cộng sản
Việt Nam đã tìm cách “đổi mới” để
sống còn nhưng không từ bỏ nguyên tắc một mình cai trị đất nước. Họ bám chặt
vào điều 4. Điều 4 của bản Hiến pháp năm 1992 chỉ thêm mấy chữ “tư tưởng Hồ Chí Minh” cho có vẻ Việt
Nam, và bỏ hai chữ “duy nhất” cho bớt
sự sống sượng khi nói đến lãnh đạo nhưng nội dung minh định đảng cộng sản Việt
Nam là đảng cầm quyền không có gì thay đổi .
Gần đây trước sự bức xúc của
dư luận, nhất là dư luận nội bộ, đảng cộng sản Việt Nam nói tới sự “luật hóa”
điều 4. Thực tế là nếu người cộng sản muốn dân chủ hóa đất nước thì đến một lúc
nào đó chính họ phải hủy bỏ Điều 4 chứ không thể dân chủ hóa bằng luật hóa điều
4 Hiến pháp. Dù luật hóa cách nào cũng không che dấu được thực tế đảng cộng sản
là trên hết và nếu cần đảng sẽ huy động bộ đội và công an để duy trì quyền tối
thượng như ngôn từ của điều 4 Hiến pháp.
Theo dõi quá trình dân chủ
hóa của khối Liên xô (gồm Liên bang Xô viết và các nước cộng sản Đông âu) trong
thời gian từ 1988 cho đến năm 1992 chúng ta thấy tại quốc gia nào cũng có một
phiên họp quốc hội hủy bỏ điều khoản cho phép đảng cộng sản nắm toàn quyền (như
điều 4 của bản Hiến Pháp Việt Nam) trước khi bước qua ngưỡng cửa dân chủ.
Cho nên chương trình mũi nhọn phải là một sách lược đấu
tranh nhằm áp lực đảng cộng sản Việt Nam bỏ điều 4 trong bản Hiến pháp để mọi
người dân có quyền tham dự vào việc nước qua sự tham gia vào những tổ chức
chính trị khác nhau và tự do lựa chọn người đại diện cho mình tại quốc hội.
Trong sách lược đòi bỏ
điều 4 Hiến pháp có một yếu tố tâm lý cần vượt qua là cho rằng nếu chỉ đòi bỏ
điều 4 Hiến pháp và vẫn giữ nguyên bản Hiến pháp 1992 mà không đòi dẹp toàn bộ
đảng cộng sản đi là một cách gián tiếp giúp cho đảng cộng sản cầm quyền hợp
pháp vì đảng cộng sản với tất cả ưu thế trong tay sẽ gian lận bầu cử để thắng.
Sự lo ngại này có căn bản.
Có phần chắc đảng cộng sản sẽ gian lận bầu cử
để thắng. Nhưng một khi bỏ điều 4, trong nước, ngoài đảng cộng sản còn
có những đảng đối lập khác, cơ chế dân chủ được vận hành, tự do ngôn luận được
thiết lập (dù lúc đầu còn non yếu, có thể bị đàn áp, nhưng chính danh) đảng
cộng sản có thể gian lận bầu cử một lần nhưng không thể gian lận mãi mà không
gặp phải phản ứng của quần chúng.
Tại Phi luật tân, năm 1986
Marcos gian lận bầu cử đã bị sức mạnh của quần chúng lật đổ đưa bà Aquino lên
cầm quyền. Tại Nam Tư năm 2000 tổng thống Milosevic thua trong một cuộc bầu cử
toàn quốc mà không chịu thua, định dùng vũ lực để ngồi lì, nên đã bị dân chúng
biểu tình lật đổ và sau đó đã bị truy tố trước tòa án quốc tế La Haye.
Một biến cố chính trị như
ở Phi Luật Tân năm 1986 và tại Nam Tư năm 2000 sẽ không thể xẩy ra tại Việt Nam
ngày nào điều 4 của Hiến pháp vẫn còn vì dân chúng không có căn bản luật pháp
để chống lại hành động độc tài của đảng. Nhưng khi điều 4 không còn, bầu cử tự
do trở thành thực tế chính trị thì biến cố Phi Luật Tân lật Marcos hay Nam Tư
lật Milosevic có thể xẩy ra nếu đảng cộng sản gian lận hoặc thua cuộc nhưng
không chịu trao quyền cho đảng thắng cuộc.
Bỏ điều 4, ngoài việc đặt
viên đá đầu tiên xây dựng dân chủ còn là vũ khí chống quốc nạn tham nhũng.
Trong tài liệu “Một Chiến Lược Dân Chủ Hóa Để Chống Tham Nhũng” phổ biến năm
2000, cựu tướng Trần Độ sinh thời đã viết:
“Lập ra bộ máy nhà nước để quản lý
xã hội thì bộ máy đó phải có quyền lực. Nhưng mà dân làm chủ thì phải có cơ chế
cho dân giám sát và kiểm soát quyền lực đó”... Thế mà ngược lại Hiến pháp lại ghi ở Điều 4 : ‘Đảng cộng sản
Việt Nam ... là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Thế thì chỉ có Đảng là
trên cả nhà nước, trên cả nhân dân, và đó là nguyên lý phản dân chủ lớn nhất”
Và ông kết luận rằng một
khi đã nắm hết quyền không ai kiểm soát mình thì sinh ra tham nhũng, cho nên
muốn chống tham nhũng thì phải hủy bỏ điều 4 Hiến pháp.
Do áp lực nội bộ, nên
trước đại hội 9 (triệu tập tháng 4/2001), đảng cộng sản đã cho tổ chức những
buổi tọa đàm tại Hà Nội nói là để “Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển” có
sự tham gia của Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương và Hội đồng Lý luận Trung
ương và một số nhà lý luận cũng thuộc nội bộ đảng như ông Trần Khuê và bà
Nguyễn Thị Thanh Xuân. Và một lần nữa họ đã công khai nhìn nhận rằng muốn giải
quyết bế tắc của đất nước không có một con đường nào khác hơn là cất bỏ điều 4
Hiến pháp. Trong một thư gởi tân tổng bí thư Nông Đức Mạnh ông Trần Khuê và bà
Nguyễn Thị Thanh Xuân viết:
“[Điều 4] không phải là điều mới lạ, sáng tạo gì của Đảng ta.
Chẳng qua là sao chép từ Điều 6 của Hiến pháp Liên Xô từ năm 1980, nghĩa là 11
năm sau khi Bác Hồ qua đời. Điều 4 đã đặt đảng cộng sản Việt Nam vào vị thế
siêu quyền lực, siêu pháp luật, không chịu bất cứ sự giám sát nào kể cả cơ quan
quyền lực cao nhất của đất nước là Quốc hội. Nói khác đi, Đảng không chịu sự
kiểm soát của Nhân Dân mà đang ngồi trên đầu trên cổ Nhân Dân (các viện sĩ Liên
bang Nga nói Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ vì đã xa rời nhân dân là không đúng,
nó đổ vì đã dính quá chặt vào đầu vào cổ Nhân Dân nên khi Nhân Dân không chịu
nổi nữa thì hất nó ra khỏi đầu khỏi cổ mình, thế thôi). Chính Điều 6 ở Hiến
pháp Liên Xô và Điều 4 ở Hiến pháp Việt Nam đã tạo điều kiện pháp lý cho những
đảng viên tồi tệ có thể lộng hành, lộng quyền một cách không giới hạn. Không
thể chống được bọn cửa quyền, tham nhũng cũng chính là do Điều 4 này.
“Nhiều đảng viên (trong đó có cả những đảng viên chân chính và
thông minh) cứ lo bỏ Điều 4 sẽ mất vai trò lãnh đạo của Đảng. Họ nhầm... Bỏ
Điều 4 thì mất bọn cửa quyền tham nhũng
chứ không thể mất Đảng. Tóm lại : bỏ thì còn, để thì mất. Liên Xô và Đông Âu đã
là cái gương tày liếp, tùy Đảng và Nhân Dân lựa chọn.”
(Đối Thoại 2001 Tập 1,2,3,4 và 5 của Trần Khuê và Nguyễn Thị Thanh Xuân)
Cuộc vận động bỏ điều 4
phải được tiến hành trong tinh thần nào? Cuộc “vận động bỏ điều 4” cần được đặt
trên một căn bản chính trị công bình trong tinh thần đấu tranh cho dân chủ bằng đối thoại vì quyền
lợi lâu dài của dân tộc chứ không phải là một cuộc đấu tranh để tiêu diệt ai.
Các đảng phái chính trị bất kể khuynh hướng nào đều có quyền tồn tại trên đất
nước Việt Nam. Tồn tại thế nào, mạnh yếu ra sao do dân chúng quyết định qua bầu
cử tự do sau khi điều 4 được cất bỏ khỏi bản Hiến pháp. Trong tinh thần đó đảng
cộng sản Việt Nam cần hiểu rằng nếu họ lấy sáng kiến cất bỏ điều 4 Hiến pháp
qua quốc hội họ đang nắm trong tay, tạo điều kiện hợp pháp cho các đảng phái
chính trị khác xuất hiện thì đảng cộng sản Việt Nam là một đảng chính trị được
công nhận và có ưu thế về mặt chính quyền trong giai đoạn chuyển tiếp.
Lực lượng đấu tranh cho
dân chủ cần quan niệm vững chắc rằng cuộc vận động này đòi hỏi thời gian và
công sức, nhưng nếu kiên trì nhất định thành công. Một thực tế khác chúng ta
cần nhận định là một khi điều 4 được hủy bỏ chưa hẳn đã có sự thay đổi trong
một sớm một chiều (đảng cộng sản vẫn còn đó với bộ máy chính quyền còn được
điều động bởi đa số là đảng viên). Nhưng tiến
trình thay đổi bắt đầu. Không còn điều 4, trên mặt luật pháp đảng cộng sản
không còn là đảng đương nhiên lãnh đạo. Các đảng phái chính trị có quyền xuất
hiện hoạt động công khai và tham gia vào các cuộc bầu cử từ địa phương đến
trung ương. Ai lãnh đạo sẽ tùy vào kết quả của các cuộc bầu cử.
Điểm sau cùng là cuộc vận
động này không phải là một sự xin xỏ đảng cộng sản hủy bỏ điều 4. Chúng ta áp
lực đảng cộng sản bỏ điều 4. Chúng ta nói với người cộng sản rằng, “nếu đảng các anh muốn có chính danh, các anh
phải tự bỏ điều 4, để cho các thành phần đối lập với các anh cùng đóng góp ý
kiến trong việc xây dựng quốc gia và tạo điều kiện cho dân chọn người lãnh đạo
qua bầu cử tự do. Qui luật của lịch sử là bằng cách nầy hay cách khác điều 4
cũng sẽ được hủy bỏ, và một sự hủy bỏ không bằng phương pháp hòa bình không
phải là điều có lợi cho đảng cộng sản và cũng không có lợi cho sự ổn định quốc
gia.
Kinh nghiệm của các quốc
gia Đông Âu và Liên xô cho thấy sau khi tu chính các đảng cộng sản liên hệ vẫn
còn cầm quyền như đảng đa số nhưng các đảng phái chính trị khác có căn bản luật
pháp tham gia sinh hoạt chính trị quốc gia, và sau cùng dân chủ đã đến một cách
hòa bình. Tiến trình dân chủ hóa nhanh hay chậm, êm thắm hay hỗn loạn tùy thuộc
vào các yếu tố khác như dân trí, khả năng của người lãnh đạo, ảnh hưởng của các
khối tôn giáo và dân tộc tính của từng quốc gia. Nhanh như Ba Lan, Tiệp Khắc,
vừa phải như Hung Gia Lợi và chậm như Bảo Gia Lợi, Liên bang Xô viết, nhưng
cuối cùng dân chủ đã đến.
Dân
chủ cũng sẽ đến với nhân dân Việt Nam. Nếu người cộng sản
Việt Nam qua quyền lực đang nắm trong tay thực hiện điều đó thì thay vì tự sát họ đã tái sinh và còn giữ được một chỗ đứng trong lòng dân tộc./.
Trần
Bình Nam
Sept.
25, 2007
Trần Bình Nam
|
http://www.tranbinhnam.com |