Bóng Dài Cuộc Chiến Việt 
Nhân kỷ niệm 25 năm ngày miền Nam Việt Nam thất thủ, ông
Henry A. Kissinger viết một bài bình luận nhan đề: "The Long Shadow of
Vietnam " (Bóng dài cuộc chiến Việt Nam) đăng trên tuần báo NewsWeek số
ngày 1 tháng 5 năm 2000. Henry A. Kissinger, cố vấn an
ninh quốc gia giữ nhiệm vụ thương thuyết mật với Hà nội sau khi hội nghị chính
thức tại 
Cách đây không lâu cựu tổng thống
Gerald Ford và tôi có dịp nói về những ngày làm việc với nhau trong chính
quyền. Chúng tôi
đồng ý rằng thời gian làm xóa nhòa nhiều chi tiết của một số việc đã làm.
Chỉ có một việc chúng tôi khó quên là ngày 
Ngày 
Những ai trải qua ngày định mệnh đó nếu
có dịp kể lại thì sẽ là những cảm tưởng và xúc động từ góc độ mình nhìn trước
bức tranh lớn trải dài 20 năm với những hy sinh to lớn. Nhưng những  người không liên hệ trực tiếp đến biến
cố cũng xúc động với một cường độ khó hiểu. Các sử gia cho đến lúc này cũng
chưa giúp soi  sáng
được gì vì còn mãi mê ghi chú những xúc động của biến cố. Thành
phần chống chiến tranh kết tội các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ khát máu gây chiến tranh
để thỏa mãn một thứ tâm lý ẩn uất. Phía hữu im lặng
coi cuộc chiến như một biến cố bất thường hoặc cho rằng Hoa kỳ đã thất bại vì
thiếu quyết tâm. 
Vì không đồng ý với nhau đối với biến cố (quan trọng nhất
trong nửa thế kỷ qua), 
người Mỹ không thể rút ra được một bài học về Việt 
 Đó là nội dung bài
viết này. Tổn thương trước nhất của chiến tranh Việt Nam là sự nghi ngờ giá trị
độc đáo của Hoa Kỳ được thế giới công nhận, và sự chia rẽ quan điểm về đề tài
hy sinh nào cần bỏ ra để xiển dương và bảo vệ giá trị đó. Sự
chia rẽ này ảnh hưởng nhiều đến các chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. 
CAN THIỆP  VÀO ĐÔNG DƯƠNG VÀ RÚT RA. 
  
Chúng ta can thiệp vào Đông Dương ở cao điểm của niềm tin
Hoa Kỳ tất thắng. Đối với chúng ta đó chỉ là sự tiếp tục một chính sách đúng
đắn đã ổn định được thế giới sau thế giới đại chiến lần thứ 2, xây dựng lại Âu
Châu, tạo điều kiện cho Đức và Nhật hội nhập cộng đồng thế giới, và chận ảnh
hưởng của Liên bang Xô viết vào Âu châu và Triều Tiên. Chính sách nói trên phát
xuất từ kinh nghiệm của Thế chiến 2 và từ triết lý của chính sách New Deal
(nguyên tắc phối hợp kinh tế với chính trị để thúc đẩy kinh tế và tăng cường an
sinh xã hội của tổng thống Franklin Roosevelt trong thập niên 1930) để chận sự
bành trường của Liên bang Xô viết và không cho người cộng sản cơ hội tạo nổi
loạn trong vùng ảnh hưởng của Hoa Kỳ. 
Mặc dù dân chúng Hoa Kỳ nói chung đồng
ý các chính sách của chính phủ đối với cuộc chiến tranh lạnh, giới trí thức nhất
là giới đại học chưa tin. Giới này
cho rằng Hoa Kỳ hoặc đã thổi phồng mối đe dọa cộng sản hoặc thân thiện với quá
nhiều chế độ độc tài để có thể nói rằng mình là kẻ bảo vệ tự do dân chủ. Tuy
nhiên sự  bất
đồng ý kiến này giới hạn trong từng chính sách chứ không phải là sự bất đồng ý
kiến với toàn bộ chính sách của chính phủ. 
Chính sách của Hoa Kỳ được xác định rõ
nhất qua bài diễn văn nhậm chức của tổng thống Kennedy. Tổng thống Kennedy nói: Hoa Kỳ sẽ "trả bất cứ giá
nào, chịu đựng và chấp nhận bất cứ khó khăn nào,  giúp bất cứ người bạn nào, chống lại
bất cứ kẻ thù nào để bảo vệ tự do." ( the 
Trước khi tổng thống Kennedy nhậm chức, tổng thống
Eishenhower khuyên giúp Lào nếu Bắc Việt 
Cuối nhiệm kỳ Johnson Hoa Kỳ cảm thấy
mệt mỏi. Chiến lược
tiêu hao kẻ địch từng mang đến chiến thắng cho Hoa Kỳ lần này không thành công
với chiến tranh du kích. Kẻ địch không giữ đất và có
quyền chọn đánh chỗ nào và lúc nào họ muốn. Ngoài ra ba nước Đông Dương
không đạt được trình độ dân chủ theo tiêu chuẩn tây
phương làm cho căn bản đạo đức của sự can thiệp trở thành vấn đề. Những người
có trách nhiệm trong việc gởi quân đến Đông Dương cũng đâm ra nghi ngờ những gì
mình đã làm sau khi tổng thống Kennedy bị ám sát. 
Khi những người lãnh đạo Hoa Kỳ đang bù
đầu với các diễn biến thì những người chỉ trích đặt vấn đề tại sao Hoa Kỳ lại
dính vào Việt 
Vào lúc tổng thống Nixon nhậm chức lằn ranh được phân
định rõ ràng. Những người trong chính quyền cũ  góp phần đưa Hoa Kỳ vào thế kẹt mất
tinh thần chẳng những không tìm lối thoát cho đất nước mà lại chạy qua hàng ngũ
những người chống chiến tranh chỉ trích chính quyền Nixon. Bấy giờ những người
chống chiến tranh có căn bản để tự tin không còn dè dặt gì nữa. Bằng xuống
đường biểu tình, coi thường luật pháp, 
từ khuôn viên các đại học, đến các cơ quan chính phủ,  những người chống chiến tranh quyết định phá
vỡ căn bản của chính sách Hoa Kỳ từng được áp dụng sau Thế chiến 2. 
Đứng trước bế tắc này, tổng thống Nixon
không đủ bén nhạy để vượt qua, nếu quả có một cách để vượt qua. Dù là người được tiếng chống lại định
chế, tổng thống Nixon là sản phẩm của "thế hệ lớn" (great generation)
nghĩa là của định chế. Ông ta tìm cách rút lui trong
danh dự mà ông nghĩ đó là ý muốn của thành phần chống chiến tranh ôn hòa.
Bắt đầu cuộc thương thuyết với Lê Đức Thọ, Nixon đưa ra một
lịch trình rút quân và một công thức để nhân dân Nam Việt 
Khi biết không thể nào đạt đến một thỏa thuận với Hà Nội,
tổng thống Nixon đơn phương thực hiện lời hứa với cử tri rút Hoa Kỳ ra khỏi
cuộc chiến Việt 
Giai đoạn rút quân này rất phức tạp bài
viết ngắn này không thể đi vào chi tiết.
Nhưng  có nhiều
sách, báo thiên lệch viết rằng Nixon đã kéo dài cuộc chiến làm tổn thất sinh
mạng binh sĩ Mỹ một cách vô ích, ý rằng có một con đường chấm dứt chiến tranh
khác mà tổng thống Nixon không muốn làm. 
Quan điểm chính trị trong giới trí thức
cũng rất khác nhau. Thời gian lớp
chúng tôi đang theo chương trình hậu đại học (graduate school)  ít người trong giới trí thức được giữ
các chức vụ cao cấp trong chính quyền. Nếu họ muốn ảnh hưởng
đến chính sách quốc gia họ phải viết nhiều về các chính sách dài hạn của quốc
gia. Chính quyền 
Kennedy đã làm cho giới trí thức khoái quyền lực chính trị và họ
muốn ý kiến mình ảnh hưởng ngay đến chính sách. Sau khi Kennedy bị ám sát họ
tiếp tục đóng góp ý kiến qua các cuộc tranh luận ngoài chính quyền. Quá trình
này tạo ra hai giới trí thức: giới  muốn kiếm việc làm trong chính phủ, và
giới ưa làm cách mạng. Giới kiếm việc nói theo chính
quyền, giới làm cách mạng theo phe phản chiến. Cuộc tranh
luận của họ không giúp tìm ra giải pháp, chỉ làm cho bất hòa quốc gia thêm sâu
sắc. 
Đã đến lúc cần có một nhận định bình tĩnh và cân đối về
vấn đề Việt 
  
BÀI HỌC VIỆT 
Việt 
Sau cuộc chiến Việt 
1. Trường phái áp dụng sách lược đã được dùng trong chiến
tranh lạnh trong hoàn cảnh giống nhau. 
2. Trường phái của những người chống chiến tranh đang giữ
chức vụ cao cấp trong chính quyền 
3. Trường phái của giới trẻ lớn lên trong một môi trường
chính trị mới không bị ảnh hưởng bởi cuộc tranh cãi liên hệ đến chiến tranh
Việt 
Nhiều người trong thành phần phóng
khoáng và trí thức vừa chán vừa sợ kinh nghiệm Việt 
Sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ
thành phần bảo thủ chới với trong việc đi tìm một chính sách thích ứng với thời
đại hậu chiến tranh lạnh. Sau thời đại Reagan, những người kế
nhiệm cũng nói mạnh như Reagan nhưng hành động thì không cương quyết bằng.
Phe hữu, đặc biệt thành phần tân bảo thủ, bị xâu xé giữa hai lựa chọn: xác định
cái gì đe dọa Hoa Kỳ sau khi Liên bang Xô viết không còn nữa để hoạch định
chính sách đối ngoại, hay định nghĩa lại nhiệm vụ đặc biệt của Hoa Kỳ là kẻ cầm
ngọn cờ tranh đấu cho dân chủ trên toàn thế giới. Trung quốc được nêu ra như là
kẻ địch tương lai của Hoa Kỳ, nhưng Trung quốc còn quá yếu, tham vọng còn ở tầm
vóc quốc gia, khả năng đe dọa Hoa Kỳ còn xa nên khó hoạch định một chính sách
lâu dài để chống Trung quốc nhất là khó thuyết phục đồng minh của Hoa Kỳ chấp
nhận một sách lược chung chống Trung quốc. Còn lại con đường giương ngọn cờ dân
chủ truyền thống của Hoa Kỳ. Nhưng con đường này cũng không dễ đi vì không thể
làm ngơ trước câu hỏi:  đâu là quyền  lợi quốc gia và
khả năng của chúng ta tới đâu. 
Những kết luận chính quyền 
Sự xin lỗi của tổng thống 
Chính sách của chính quyền 
Giới trẻ thời đại kinh tế này nhìn về Wall Street như
thời trẻ chúng tôi nhìn về Hoa Thịnh Đốn. Một phần vì tiền bạc bây giờ quan
trọng hơn, một phần không ai muốn làm chính trị để bị bươi móc, nói xấu và có
khi bị lôi ra tòa. 
Di sản của Việt 
Lối nhìn trên không tạo thành vấn đề vì
thế giới không bị đe dọa bởi viễn ảnh một cuộc chiến tranh toàn diện. Trong bối cảnh hòa bình, những người
lãnh đạo thuộc thế hệ hậu chiến tranh lạnh (từng chống chiến tranh hay xuất
thân từ các trường dạy kinh doanh) thấy một chính sách đối ngoại chỉ là việc
thuyết phục thế giới nên làm gì. Khi một siêu cường  kinh tế và quân sự hạ mình xuống và
hành xử theo đạo đức thì ai không theo và siêu cường đó trở thành bá chủ. Nhưng
là bá chủ thì người ta chống, và điều này giải thích tại sao các bá chủ trên
thế giới từ cổ chí kim trước sau cũng sụp đổ. 
Sức mạnh kinh tế không thay thế được
một chính sách quốc gia. Toàn cầu hóa chỉ thành tựu được qua sự chuyển biến và căng thẳng
bên trong và giữa các xã hội khác nhau. Quốc gia-nhà
nước (nation-state), những thực thể chính trị có chức năng giải quyết các thay
đổi và căng thẳng trên cũng nằm trong quá trình chuyển biến. Trong nhiều
vùng trên thế giới các thực thể chính trị này bị bẻ ra theo
chủng tộc hay tan biến vào một nước khác. Quá trình này làm cho sự phổ biến của
các loại vũ khí có khả năng tàn sát tập thể trở thành mối đe dọa chính trị chưa
từng thấy. 
Nếu thế hệ lãnh đạo mới của Hoa Kỳ thấy lúng túng trong
việc hoạch định một chính sách quốc gia để đương đầu với các vấn đề trên, và ở
cuối đường phải xử dụng sức mạnh quân sự  thì chúng ta không nâng cao giá trị
đạo đức mà dần dần đi vào con đường tê liệt. Lẽ dĩ nhiên chính sách nào của Mỹ
quốc cũng phải xuất phát từ ý niệm dân chủ và sự an
toàn của thế giới. Nhưng cũng cần chuẩn bị trước những hoàn
cảnh hắc búa. Chẳng hạn, để sống còn chúng ta có tận
dụng mọi phương tiện không? Chúng ta có cần phải được
sự đồng thuận của thế giới trước khi hành động nếu chúng ta thấy hành động đó
là đúng với truyền thống của chúng ta không? Nếu chúng
ta đúng một mình có gì là sai trái không? Điều  gì vượt quá khả năng hay không phù hợp
với quyền lợi quốc gia? 
Chúng ta chưa thể vượt qua cái bóng đen của cuộc chiến
Việt Nam và sẵn sàng đương đầu với đe dọa mới, chừng nào chúng ta chưa đạt đến
sự  đồng thuận quốc gia về những vấn đề
trên. Điều này đòi hỏi sự tương kính giữa các phe phái, ý
thức rằng chúng ta thảo luận để tìm ra một lối đi cho quốc gia, chứ không phải
cãi nhau cho đến chết, điều đã xẩy ra trong thời gian chiến tranh Việt 
Henry A.
Kissinger 
 
| Trần Bình  | http://www.vnet.org/tbn |