Bush, Hoa
Kỳ và Thế Giới chúng ta
Trần Bình 
George Bush thắng cử ngày 2 tháng 11, 2004 và sẽ là một vị tổng thống
trọn vẹn 8 năm như giới hạn tối đa Hiến Pháp Hoa Kỳ cho phép. Bush có quyền tự
hào vì cuộc tranh cử rất gay go. Cử tri hai bên hăng hái đi bầu để ủng hộ người
mình chọn lựa. Tỉ số cử tri đi bầu cao hơn tỉ số năm 2000 là
11%. Và ông Bush đã thắng một cách gọn gàng, vượt đối thủ của ông là Thượng
nghị sĩ John Kerry hơn 3.480.000 phiếu, chiếm 286 phiếu cử tri đoàn trên 270
phiếu cần thiết để đắc cử. Buổi sáng ngày 3/11 vào lúc 
Cuộc chiến thắng của Bush càng to lớn vì tại hai viện quốc hội đảng
Cộng Hòa của ông chẳng những vẫn duy trì đa số mà còn tăng thêm ghế. Thượng nghị viện thêm 4 ghế đưa đa số từ 51/48 lên 55/44, và Hạ nghị
viện thêm 4 ghế đưa đa số từ 228/206 lên 232/202. Chiến thắng này là một
thông điệp không thể chối cãi dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ chính sách của Bush và bày
tỏ ý muốn ông tiếp tục chính sách của ông trong 4 năm nữa, mặc dù chính sách đó
đang là một gánh nặng cho quốc gia và tạo nên mối bất hòa trên thế giới. Nếu năm
2000 ông Bush thắng cử không có sứ mệnh của dân thì lần này ông có sự mệnh rõ ràng
trong tay.
Thành phần ủng hộ tổng thống Bush là những ai? Thống kê của viện Race &
Ethnic Studies tại đại học A&M ở Texas cho thấy trong số 117.6 triệu người đi
bầu: 58% người da trắng bầu cho Bush, 41% bầu cho Kerry; người da đen 11% cho
Bush, 88% cho Kerry; người gốc Mễ 43% cho Bush, 56% cho Kerry; và người gốc Á
châu 41% cho Bush, 58% cho Kerry.
Người da trắng chiếm đa số trên toàn quốc, người da đen, người gốc
Mễ, gốc Á châu gộp lại cũng còn là thiểu số. Vậy người
da trắng đã quyết định kết quả cuộc bầu cử. Người da
trắng bỏ phiếu cho Bush thuộc một trong hai thành phần. Thứ nhất là thành
phần chủ trương một chính sách mạnh để trả đũa cuộc khủng bố ngày 
Sự thắng lớn của George Bush trong một khung cảnh hoàn toàn bất lợi
cho ông như kinh tế không có dấu hiệu gì phấn khởi, ngân sách thâm thủng, cuộc
chiến tại Iraq sa lầy, Hoa Kỳ mất uy tín trên thế giới đã nói lên rằng dân chúng
Mỹ vẫn muốn làm người hùng. Họ chưa quên lời tuyên bố của tổng thống Kennedy
trong bài diễn văn về tình trạng liên bang của ông năm 1961 rằng nước Mỹ sẵn sàng
“trả bất cứ giá nào, mang bất cứ gánh nặng nào” (pay any price, bear any
burden). Khác chăng là năm 1961 tổng thống Kennedy chấp nhận trả bất cứ giá nào,
mang bất cứ gánh nặng nào để bảo vệ Hoa Kỳ khi Liên bang
Xô viết mang đầu đạn nguyên tử đến 
Bush sẽ làm gì trong 4 năm tới? Bình thường vị tổng thống nào cũng
biết rút kinh nghiệm của nhiệm kỳ thứ nhất và những sáng kiến mới của đối phương
qua cuộc tranh cử để điều chỉnh chính sách trong nhiệm kỳ 2, và để dọn cho mình
một chỗ đứng trong lịch sử. Nhiều người hy vọng Bush sẽ hành
xử nhiệm vụ và sứ mệnh được giao phó một cách dè dặt, biết nhìn trước nhìn sau.
Một vài dấu hiệu theo hướng này như hứa sẽ thực hiện một chính sách đoàn kết để
hàn gắn những rạn nứt trong xã hội, hứa giải quyết vấn đề Do Thái – Palestine
trong tinh thần tôn trọng quyền lập quốc của Palestine, hứa đi thăm Âu châu sau
ngày tuyên thệ nhậm chức để làm lành với các đồng minh Âu châu.
Tuy nhiên dấu hiệu ngược lại là Bush phất cao ngọn cờ hùng để tiến
tới trước rõ ràng hơn. Việc bổ nhiệm bà Condoleezza Rice thay
thế ông Colin Powel ở chức vụ bộ trưởng ngoại giao chỉ dấu đường lối lãnh đạo của
tổng thống Bush trong nhiệm kỳ 2. Bà Rice có đầy đủ khả
năng và kinh nghiệm để làm một bộ trưởng ngoại giao. Cái
học của bà có thể vượt trội cái học vấn của ông Powell có được ở các trường quân
sự. Nhưng bốn năm qua ở chức vụ cố vấn an ninh quốc gia bà Rice tuyệt đối
trung thành với Bush và hành xử nhiệm vụ  như chiếc bóng thực hiện những chỉ thị của
Bush bên cạnh hai khuôn mặt Dick Cheney và Donald Rumsfeld khi nào cũng lấn lướt
bà. Vậy bà có thể làm được gì giúp Bush bên trong và bên ngoài?
Vào lúc Bush đang cần một chính sách ngoại giao thoáng, đầy sáng kiến và mềm dẽo
Bush chọn một nhân vật hoàn toàn thiếu khả năng để làm công việc đó.
Những vấn đề trước mắt của tổng thống Bush không đơn giản. Ông
Richard Haass, nguyên viên chức cao cấp phụ trách chính sách tại bộ ngoại giao
Hoa Kỳ trong hai năm 2001-2003 và nay là chủ tịch Hội đồng Quan hệ Ngoại giao
(Council on Foreign Relations - một cơ sở tư) cho rằng Bush có bốn vấn đề lớn
trước mắt:
Trước hết là chận đứng nạn khủng bố. Từ năm 2001, hai phần ba thành
viên Al Qaeda trên thế giới đã bị bắt hay bị giết, nhưng theo
tin tức tình báo chúng đều được thay thế. Và cái ẩn số lớn là: Al Qaeda có khả
năng có vũ khí nguyên tử hay không, và nếu có chúng có khả năng dùng để đánh
Hoa Kỳ không?
Vấn đề thứ hai là vũ khí nguyên tử của Bắc
Hàn và 
Vấn đề khác là cuộc tranh chấp Do Thái -
Sau cùng Đài
Loan -Trung quốc là một vấn đề hóc búa khác. Hoa Kỳ chấp nhận nguyên tắc “một nước Trung
hoa”, nhưng còn dính cam kết bảo vệ Đài Loan. Nếu Đài Loan
tuyên bố độc lập Trung quốc sẽ đánh Đài Loan. Hoa Kỳ đưa quân đến bảo vệ
Đài Loan thì Hoa Kỳ sẽ biến một nước Trung quốc bạn thành thù. Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn trong vấn đề nguyên tử với Bắc Hàn và
tại Liên Hiệp quốc vì Trung quốc có quyền phủ quyết. Nếu tọa thị để
Trung quốc chiếm Đài Loan thì còn ai tin vào đồng minh Hoa kỳ nữa (“The world
on his desk” by Richard Haass, The Economist,  
Tuy nhiên chìa khóa của tất cả vấn đề trên nằm ở 
Trong bối cảnh đó 
Nhiều người cho rằng sự lo ngại tổng thống Bush sẽ lợi dụng sứ mệnh  của dân vừa giao
phó để đi quá xa là một sự lo ngại quá đáng. Nhưng John Bolton, phụ tá bộ trưởng
ngoại giao của tổng thống Bush từng phát biểu vào cuối thập niên 1990 rằng: “thật
là sai lầm nếu chúng ta chấp nhận giá trị của các luật lệ quốc tế - dù chỉ
trong ngắn hạn – vì những người nại luật quốc tế là những người trong dài hạn
chỉ muốn hạn chế khả năng hành động của chúng ta” (The Sources of American
Legitimacy, Foreign Affairs November/December 2004 by Robert Tucker & David
Hendrickson). Trong tinh thần đó vụ khủng bố 11/9/2001 là một cơ hội bằng vàng để
đẩy mạnh chính sách người hùng của tổng thống Bush và các phụ tá cực hữu của ông
để thực hiện mộng “đế quốc” nghìn năm một thuở khi Liên bang Xô viết đã sụp đổ
và Trung quốc còn quá yếu. Cho nên sự lo ngại trên không phải
là một sự quá lo xa.
Nhưng nếu trước cuộc bầu cử ngày 2/11/2004 dư luận quy trách những
khó khăn của Hoa Kỳ trên thế giới cho tổng thống Bush thì sau khi dân chúng Hoa
Kỳ đã bỏ phiếu ủng hộ đường lối cực hữu của ông thì dù cục diện thế giới và Hoa
Kỳ sẽ như thế nào là trách nhiệm chung của nhân dân Hoa Kỳ chứ không phải là trách
nhiệm riêng của tổng thống Bush.
Nếu cuộc bầu cử ngày 2 tháng 11 năm 2004 là cao điểm quyền lực của
đảng Cộng Hòa và của tổng thống Bush cũng như của Hoa Kỳ, để như mọi hiện tượng
trong trời đất, cao điểm là điểm khởi đầu của sự đi xuống thì cuộc bầu cử ngày
2/11/2004 là một biến cố, một hiện tượng lịch sử, trong đó nhân dân Hoa Kỳ, có đã
đảng Dân Chủ và cá nhân ông John Kerry cùng chia xẻ trách nhiệm.
Trần Bình 
| Trần Bình  | http://www.vnet.org/tbn |