CIA và các ông Tướng
(Phần
5)
Chương
7: Nỗ lực duy trì hiện trạng
Chương
8: Thời điểm sinh tử
Nỗ Lực Duy Trì Hiện Trạng
Từ mùa Thu 1973 cho đến mùa Đông 1974,
cộng sản Hà Nội chơi trò mèo chuột với quân đội VNCH, và cũng là thời gian quan
hệ giữa tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và đại sứ Martin lạnh nhạt nhất.
Cuối năm 1974 tin tình báo cho biết
cộng sản sẽ mở cuộc tấn công Đông Xuân 74-75. Và cuộc tấn công đã diễn ra cuối
năm 1974. Ngày 6/1/75 tỉnh lị Phước Long thất thủ.
Trong buổi chất vấn của Thượng Viện
Hoa Kỳ để phê chuẩn Henry Kissinger vào chức vụ bộ trưởng ngoại giao, Kissinger
nói trước Thượng Viện rằng “chiến tranh Việt Nam xem như đã qua.” Polgar ở Sài
gòn cho rằng Kissinger không diễn tả hiện trạng của cuộc chiến tranh. Cộng sản
Hà Nội không tôn trọng Hiệp định Paris và do đó cuộc chiến chưa chấm dứt.
Langley đồng ý với Polgar và tiên đoán chiến cuộc sẽ bùng nỗ vào khỏang tháng
11 năm 1974 .
Tháng 12, 1973 đại sứ Martin đi Paris
tham dự hội nghị thi hành Hiệp định. Trở về Sài gòn ngày 22/12/73, Martin –
theo khuyến cáo của Bộ trưởng ngoại giao Kissinger – yêu cầu tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu đơn phương tuyên bố ngưng bắn, chấp nhận bản đồ phân chia ranh giới
kiểm soát (da beo) và trao đổi tù binh. Kissinger tiên đoán Hà Nội sẽ bác bỏ đề
nghị của Thiệu và Ủy ban Quốc tế Kiểm soát Đinh chiến (UBQT/KSĐC) sẽ tuyên bố
Hà Nội không có thiện chí thi hành Hiệp định Paris.
Cuối năm 1973 Polgar báo cáo về
Langley rằng miền Bắc đang gặp khó khăn kinh tế, và Hà Nội đang muốn duy trì
hiện trạng hơn là vi phạm hiệp định lật đổ ông Thiệu ngay. Nam Việt Nam cũng
chỉ muốn duy trì hiện trạng.
Tình hình do đó lắng dịu cho đến năm
1974. Tháng 2/74 tổng thống Thiệu vận dụng quốc hội tu chính hiến pháp cho phép
ông ra ứng cử nhiệm kỳ thứ ba, sau đó ông cải tổ nội các. Sự cải tổ làm CIA mất
một số người cho tin quan trọng. Ông Nguyễn Văn Ngãi rời ghế bộ trưởng Bộ Phát
Triển Nông Thôn sang ngồi chơi xơi nước bên đảng Dân Chủ. Bộ trưởng bộ Cựu
Chiến Binh Phạm Văn Đổng bị rắc rối vì một vụ chứa bạc lậu nên cũng mất sự tiếp
cận với Thiệu. Đổng dùng quan hệ với CIA để chạy tội nhưng CIA không giúp. Kết
quả, tháng 4/74 Đổng bị bắt và bị tù cho đến tháng 7/74. Tuy nhiên tướng hồi
hưu Trần Văn Đôn (kiêm Thượng nghị sĩ) trở lại chức vụ Phó Thủ tướng Đặc trách
Thanh tra và An ninh. Đôn vốn có nhiều quan hệ với CIA và là một nguồn cho tin
tốt. Khiêm thì vẫn hợp tác với CIA trên căn bản thường xuyên.
Đầu năm 1974 tại Hoa Kỳ lợi dụng lúc
tổng thống Nixon đang gặp khó khăn về vụ Watergate, báo chí Mỹ - dẫn đầu bởi tờ
báo NewYork Times- dấy lên phong trào nói xấu chính quyền Nam Việt Nam để
thuyết phục Quốc hội thôi ủng hộ Nam Việt Nam. Báo chí Mỹ còn tố cáo CIA tiếp
tay cho cảnh sát Việt Nam tra tấn tù nhân chính trị. Và đại sứ Martin đã yêu
cầu Thượng nghị sĩ William Fulbright (Dân chủ, bang Arkansas) quan tâm đến vấn
đề này.
Cuối tháng 4/74 Hà Nội đề nghị một
phương thức thi hành Hiệp định, nhưng lần này, trước những hành động vi phạm
Hiệp định một cách lộ liễu của Hà Nội, ông Thiệu bác bỏ, cho Hà Nội chỉ có mục
đích tuyên truyền. Đại sứ Martin thì muốn Thiệu chấp thuận đề nghị của Hà Nội
nhất là mục trao đổi tù nhân để ép Hà Nội đóng tiền cho ngân sách của UBQT/KSĐC
và không ngăn cản sự thiết lập các trạm kiểm soát theo quy định của Hiệp định
Paris.
Giữa tháng 4/74, đại tá Karoly Gambos
người Hungary, thuộc phái bộ kiểm soát đình chiến tiếp xúc với Polgar cho biết
Liên bang Xô viết đã tạm ngưng luồng tiếp vận vũ khí cho Hà Nội và yêu cầu Hoa
Kỳ cũng ngưng tiếp vận cho Nam Việt Nam. Đại tá Gambos nói Nga chỉ muốn duy trì
hiện trạng ngưng bắn tại chỗ và không muốn khuyến khích Hà Nội lật đổ Thiệu.
Nghi ngờ âm mưu của phe cộng sản trong đề nghị này nên sự tiếp cận Polgar của
đại tá Gambos không mang lại kết quả nào.
Trong khi đại sứ Martin nghi ngờ báo
chí Mỹ muốn miền Nam Việt Nam sụp đổ thì tổng thống Thiệu nghi ngờ chính chính
phủ Hoa Kỳ cũng có chủ trương này (TBN: ông Thiệu không thể không nghi như vậy
vì ông biết quá nhiều về Kissinger, bây giờ Kissinger là bộ trưởng Ngoại giao).
Ngày 6/6/74 trước khi về Washington để
tham khảo, Martin – theo khuyến cáo của Quang bàn trước với Polgar – quả quyết
với Thiệu Hoa Kỳ không giúp đỡ gì việc chống Thiệu của Phong Trào Chống Tham
Nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh, mặc dù Hoàng Đức Nhã quả quyết như vậy.
Quang cũng yêu cầu Polgar nhắc Martin quan tâm đến chương trình viện trợ kinh
tế và hứa rằng (để làm vui lòng Quốc hội Mỹ) ông Trần Ngọc Châu sẽ được trả tự
do khi Martin đến Hoa Kỳ.
Sau khi Nixon từ chức (9/8/74),
Shackley (bây giờ phụ trách Cục Viễn Đông của CIA) yêu cầu Polgar giám định mối
nguy của Nam Việt Nam. Trong báo cáo
Polgar tiên đoán: “cuộc tấn công định mệnh sẽ đến sớm và rất có thể sẽ đến
trong mùa khô 1975 .”
Ngày 8/11/74 Polgar nhận được báo cáo
tình báo từ Hà Nội qua cơ sở CIA tại Biên Hòa cho biết Bộ Chính trị đảng Cộng
sản Việt Nam vừa họp thông qua Nghị Quyết 75 quyết định tung một cuộc đại tấn
công miền Nam trong năm 1975 và cuộc tấn công này sẽ lớn hơn mức độ cuộc tấn
công 1972. Nghị Quyết 75 nhận định rằng cộng sản Hà Nội chỉ dùng 1/3 lực lượng
hiện có tại miền Nam đã có thể kềm chế toàn bộ quân đội VNCH, và rằng cuộc tấn
công trải rộng trên toàn quốc trên cả ba mặt quân sự, chính trị và kinh tế.
Lệnh thu mua lúa gạo và các thực phẩm khác chuẩn bị cho một chiến dịch dài ngày
đã được Hà Nội ban hành.
Polgar do dự chưa chuyển tin tình báo
này về Langley thì giới tình báo Hoa Kỳ hỏi Polgar nghĩ gì về phân tích tình
báo trước đó của Hội đồng Tình báo Trung ương rằng có thể Hà Nội sẽ không mở
một cuộc tấn công quy mô trong mùa khô từ 8/74 đến 6/75. Trả lời ngày 11/11/74,
Polgar không nhắc lại lời tiên đoán của ông phù hợp với nội dung của tin tình
báo “khá tế nhị” mà ông vừa nhận được, và viết rằng CIA Sài gòn cũng chưa có cơ
sở nào để nghĩ khác với Hội đồng Tình báo. (TBN: có lẽ Polgar không muốn làm
mất lòng cấp trên). Tuy nhiên Polgar đính kèm “bản tin tình báo từ Hà Nội” để
Hội đồng Tình báo xét với lưu ý rằng nguồn cung cấp tin này là nguồn đã cung
cấp tin rất chính xác về vụ tấn công
1972. Tòa đại sứ cũng nhận được một tin đặc biệt từ Thượng Tọa Thích Trí Quang
– qua một trung gian – rằng Hà Nội sẽ mở một cuộc tấn công lớn nếu trong vòng 3
hay 4 tháng tổng thống Thiệu chưa từ chức.
Về mặt tình báo, CIA nghĩ Hà Nội có
thể mượn người tung những tin này để đe đọa và làm suy mòn tư thế chính trị của
Thiệu. Nhưng vì tính khả tín của nguồn cung cấp tin từ Hà Nội nên Polgar quyết
định yêu cầu đại sứ Martin và tướng Bình đặc biệt quan tâm đến toan tính đại
tấn công của cộng sản.
Đường giây tình báo từ Hà Nội còn cho
biết thêm chiến địch 1975 dự tính kéo dài qua năm 1976 cho đến cuộc bầu cử tổng
thống tại Hoa Kỳ, và mọi chuẩn bị cho chiến trường miền Nam phải được hoàn tất
vào cuối tháng 12/1974.
Trước tình hình quân sự không mấy sáng
sủa cho miền Nam, Hoa Kỳ lấy lý do các
nước A Rập phong tỏa dầu hỏa đã cắt bớt viện trợ kinh tế cho Nam Việt Nam. Tổng
thống Thiệu nghi ngờ đây là đòn phép của Hoa Kỳ vì trước đó ông đã bác bỏ đề
nghị cải tổ nội các của Martin.
Thiệu lượng định rằng, và Khiêm thông
báo cho CIA biết, tình hình năm 1975 sẽ không sáng sủa về cả hai mặt quân sự và
kinh tế. Khiêm nói với Hoa Kỳ rằng Hà Nội thừa biết quân đội VNCH không có khả
năng bảo vệ tất cả 44 tỉnh miền Nam, và tổng thống Thiệu cũng không có ý định
rải quân mỏng bảo vệ tất cả lãnh thổ. Sự thông báo này hàm ý tổng thống Thiệu
có thể sẽ bỏ một số đất. Khiêm nói úp mở rằng thí dụ giữ được Kontum thì tốt,
nhưng không có lý do gì phải hy sinh một sư đoàn để giữ Kontum.
Ngày 6/1/75 Phước Long thất thủ. Đại
sứ Martin báo cáo với Washington rằng Hà Nội đã thành lập 4 sư đoàn với nhân
lực địa phương nên có khả năng nới rộng sự kiểm soát đất mà không cần di chuyển
các sư đoàn từ miền Bắc vào. Nhưng Martin cho biết, theo ông, Thiệu vẫn còn khả
năng đáp ứng sự lấn đất của cộng sản. Polgar thì cho rằng tình hình ngang ngữa
đó có thể sẽ nghiêng dần về phía Hà Nội, vì trong khi Liên bang Xô viết và
Trung quốc ồ ạt viện trợ quân dụng cho Hà Nội thì Hoa Kỳ không viện trợ đầy đủ
cho VNCH, ngay cả trên căn bản “một đổi một” vì
sự cản trở của Quốc hội Hoa Kỳ. Ngay cả 700 triệu mỹ kim đã có trong
ngân sách, Quốc hội cũng chần chừ không muốn chuẩn chi đến nổi Kissinger phải
gọi Martin về Mỹ để vận động với Quốc hội. Tổng thống Thiệu nói – và Polgar
chuyển lời về Washington- rằng “hình như Hoa Kỳ đang dối gạt VNCH trong khi Hoa
Kỳ bị Liên bang Xô viết dối gạt.”
Một tướng người Úc châu, ông Ted
Serong khuyên Thiệu nên bỏ 4 tỉnh địa đầu (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam,
Quảng Nghĩa), nhưng Khiêm cho biết Thiệu nghĩ kế hoạnh đó không thực tế về cả
hai phương diên quân sự và chính trị. Tuy nhiên tin đồn bỏ đất của Thiệu đang
được dư luận báo chí Hoa Kỳ bàn tán theo hướng bất lợi cho Thiệu. Nhân vụ này
Thiệu yêu cầu Polgar vận động với Martin giúp thành lập một hội Việt-Mỹ tại Mỹ
để lobby chống lại các thành phần
phản chiến chuyên loan tin bất lợi cho Nam Việt Nam.
Thiệu nghĩ một cách đơn giản rằng
trước sau Quốc hội Mỹ cũng chuẩn chi 700 triệu mỹ kim và ông sẽ có đủ đạn dược,
xăng nhớt chống lại cuộc xâm lăng 1975 của Hà Nội. Nếu không ông sẽ tái phối
trí (TBN: được hiểu là bỏ đất). Để yểm trợ Thiệu, Polgar gởi điện văn về
Washington rằng “nếu Hoa Kỳ không viện trợ cho Sài gòn thì Hà Nội không thấy có
lý do gì thỏa thuận những đề nghị có tính hòa hoãn của ông Thiệu như Hoa Kỳ
muốn” .
Cuối tháng 2/75 tổng thống Ford đề
nghị một gói viện trợ 3 năm cho VNCH. Ngày 26/2 Polgar gởi điện văn yêu cầu
Kissinger dùng “uy tín cá nhân và khả năng trí tuệ” của mình để vận động quốc
hội thông qua gói viện trợ này. Polgar viết, gói viện trợ 3 năm này sẽ làm cho
Hà Nội suy nghĩ lại về các toan tính của họ, và do đó mới có điều kiện thi hành
Hiệp định Paris.
Theo lượng giá của Polgar số đạn dược
Hà Nội chuyển vào Nam rất lớn, gồm đạn dược dự trữ bảo vệ miền Bắc và đạn dược
do Liên bang Xô viết và Trung quốc viện trợ gộp lại. Lượng giá này cho thấy Hà
Nội dự tính một cách liều lĩnh bỏ trống miền Bắc cho chiến dịch 1975. Polgar
phân tích rằng nếu Hoa Kỳ viện trợ đầy đủ cho Nam Việt Nam thì sau khi dốc cạn
vốn mà không thắng, Hà Nội bắt buộc phải từ bỏ ý định chiếm miền Nam bằng vũ
lực. Đã có dấu hiệu Liên bang Xô viết mệt mỏi và chấp nhận sự tồn tại của hai
nước Việt Nam như Hàn quốc và Đức quốc.
Thời điểm sinh tử
Ngày 10/3/75 cộng sản mở màn cuộc tấn
công 1975 và chiếm Ban Mê Thuộc, tỉnh lị tỉnh Darlac. Thành phố Pleiku bị đe
dọa, và trưởng cơ sở CIA Don Nicol tại Pleiku gởi báo cáo khẩn trương hằng ngày
về cơ sở CIA Nha Trang. Ngày 12/3, súng
phòng không của quân đội Bắc việt bắn hạ một chiếc Dakota chở hành khách của
hãng hàng không dân sự Air Việt Nam trên không phận ngoại ô Pleiku. Không nhận
được chỉ thị nào của Sài gòn, ngày 13/3 Nicol họp nhân viên tình báo tại Pleiku
và tự động phát họa một kế hoạch dự phòng di tản cho toàn bộ nhân viên Mỹ-Việt
có liên hệ với CIA.
Trong khi đang họp, Nicol nhận được
điện thoại của Đại tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 cho biết các vị
trí của quân đội VNCH đang bị đe dọa và khuyên người Mỹ nên rút khỏi Pleiku. Lý
cho Nicol biết ngày mai 14/3 tướng Phạm Văn Phú sẽ họp với tổng thống Thiệu tại
Cam Ranh. Buổi họp được giữ kín và máy bay của tướng Phú sẽ đi Qui Nhơn trước
để đánh lạc hướng. Lý hứa với Nicol có tin gì sau khi Phú đi họp về Lý sẽ cho
hay.
Nicol báo cho Robert Chin, trưởng cơ
sở CIA Nha Trang biết nội dung tin Lý vừa cung cấp. Ngày hôm sau 14/3 trước khi
Nicol bay về Nha Trang họp thì được điện thoại của Chin cho biết cơ sở Qui nhơn
cho hay tướng Phú có bay về Qui Nhơn thăm bộ chỉ huy một sư đoàn ở đó.
Chiều ngày 14/3, sau khi Nicol đã đi
Nha Trang, Stephens (phụ tá của Nicol?) đến bộ tư lệnh quân đoàn 2 kiếm tin về
cuộc họp giữa Phú và Thiệu. Stephens gặp Lý trước, Lý chưa nói được gì thì Phú
bước vào. Stephens thấy Phú có vẻ thất sắc và mất bình tỉnh, nhưng Stephens
nghĩ Phú đang lo về tình hình quân sự suy đồi của vùng 2 chứ không liên quan gì
đến nội dung chỉ thị của Thiệu trong buối họp buổi sáng tại Cam Ranh.
Hôm đó Stephens không lấy được tin gì.
Ngày mai Stephens trở lại với hy vọng có tin sốt dẽo. Khi xe chạy qua phi
trường Pleiku Stephens không thấy các phản lực cơ của Không quân Việt Nam
thường đậu ở đó. Đến bộ tư lệnh Stephens thấy đồ đạt vương vãi như đang dọn
nhà. Nửa giờ sau Stephens tìm được Lý. Lý kéo Stephens ra một chỗ vắng và sau
khi căn dặn tuyệt đối giữ kín, Lý cho Stephens biết Thiệu ra lệnh tướng Phú bỏ
Pleiku và Kontum. Stephens vội vàng thông báo tin sơ khởi cho cố vấn tỉnh
Darlac Earl Thieme, rồi đi tìm gặp Phú để xác nhận. Thi hành lệnh của tổng
thống Thiệu không cho người Mỹ biết quyết định
rút quân ra khỏi Pleiku và Kontum, tướng Phú nói với Stephens ông cho
dời bộ chỉ huy Quân Đoàn về Nha Trang cho an toàn chứ không có ý bỏ Pleiku và
Kontum. Tuy nhiên – cũng như đại tá Lý- Phú khuyên người Mỹ nên rời khỏi
Pleiku.
Nhận được báo cáo của Chin, Polgar còn
đang lượng định sự xác tín của nguồn tin, thì lãnh sự Mỹ tại Nha Trang
Moncrieff Spear và Chin đã khẩn khoản yêu cầu, và Polgar chấp thuận cho tất cả
nhân viên Mỹ rời khỏi Pleiku và Kontum. Sau khi toàn bộ nhân sự tình báo về đến
Nha Trang với máy giải mã và vũ khí, phó CIA Sài gòn LaGueux dùng máy bay đích
thân bay quan sát và chụp hình đoàn quân rút lui của tướng Phú trên đoạn đường
Pleiku – Phú Bổn. LaGueux thấy cuộc rút lui vô cùng hỗn độn.
Polgar
tiếp xúc với Quang và tướng Lê Nguyên Khang, Tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến
Việt Nam (TQLC) để tìm hiểu toan tính thật sự của tổng thống Thiệu. Khang nói
Khang không biết gì. Và rằng ông mới gặp tướng Cao Văn Viên cũng không thấy
Viên nói gì. Quang thì nói úp mở rằng việc di tản ra khỏi Kontum là điều có thể
xẩy ra. Còn Thiệu khi gặp Phó đại sứ Lehmann cũng không xác nhận ông đã ra lệnh
di tản.
Vì không biết được một cách chính xác
Thiệu tính gì, Polgar cho rằng việc bỏ Pleiku và Kontum là chiến thuật gom quân
của Thiệu để chiếm lại Ban Mê Thuột.
Ngày 17/3, tướng Viên, với phép của
Thiệu chính thức thông báo cho tướng Homer Smith, tùy viên quân lực Hoa Kỳ biết
quân đội VNCH đang rút ra khỏi Pleiku và Kontum. Viên xin lỗi tướng Smith đã
không thông báo sớm hơn vì lệnh của tổng thống Thiệu.
Ngày 14/3 trong khi tổng thống Thiệu
gặp các tướng Phú, Khiêm, Viên, Quang tại Cam Ranh thì Polgar đang nhức đầu vì
mất Ban Mê Thuột và áp lực cộng sản nặng nề tại tỉnh Tây Ninh. Theo Polgar
cường độ của cuộc tấn công vượt quá trận
tấn công 1972. Bình nói với Polgar rằng quân đội VNCH đang cố gắng tái chiếm
Ban Mê Thuột, và việc chiếm lại được hay không sẽ quyết định vận mạng của Nam
Việt Nam.
Sau này nhìn lại tình hình lúc đó
Polgar cho rằng cuộc tấn công của cộng sản chưa đủ sức làm cho miền Nam sụp đổ. Nam Việt Nam sụp đổ vì lỗi lầm chiến thuật
của VNCH. Vùng 2 rồi Vùng 1 sụp đổ nhanh chóng vì Thiệu quyết định rút ra khỏi
Pleiku và Kontum quá vội vàng, và các tướng lãnh đã thực hiện cuộc rút lui một
cách tồi tệ. Tuy nhiên thủ tướng Trần
Thiện Khiêm cho rằng Hoa Kỳ đã gián tiếp làm miền Nam sụp đổ. Ông nói: “Chừng
nào cái Quốc hội Hoa Kỳ ‘khốn kiếp’ đó còn chơi trò thắt chặt viện trợ thì
chừng đó cộng sản Hà Nội càng được khuyến khích.” Một nhân vật khác (TBN: tài
liệu không ghi là ai nhưng có thể đoán là tổng thống Thiệu) nói rằng “khi Hà
Nội tấn công Nam Việt Nam trong năm 1972 Hoa Kỳ còn dùng B52 và hải pháo đánh
phá trả đũa Bắc việt, bây giờ thì im thin thít. Hoa Kỳ sau khi chơi trò
Kissinger, bây giờ đến trò Quốc hội, và chúng tôi có thể làm gì đây?”
Trong khi Hà Nội đang mở cuộc tấn
công, đại sứ Martin đang chữa răng ở Mỹ, và – theo Polgar- các phụ tá của
Martin không đủ khả năng để nắm tình hình . Cho nên các báo cáo có chất lượng
phản ánh thực tế đều do CIA báo cáo.
Ngày 20/3 Langley yêu cầu Polgar cho
biết sự tính toán của Thiệu trước tình hình đổ vỡ nhanh chóng và cho Polgar
biết Washington đang chuẩn bị một chương trình giúp người tị nạn từ miền Trung
vào.
Phản ứng của Polgar : “Chương trình
giúp người tị nạn thì giải quyết được gì ? Thiết giáp của Hà Nội chỉ có thể bị
chận lại bằng vũ khí chống tăng chứ không thể bằng một chương trình nhân đạo.
Hoa Kỳ đã không giữ lời cam kết thay thế vũ khí cho quân đội Nam Việt Nam trên căn
bản ‘một đổi một’ và cũng không nhắc cho Hà Nội biết hậu quả họ sẽ gánh chịu
nếu vi phạm Hiệp định Paris bằng cách mở một cuộc tấn công quy mô vào miền Nam
là hai nhát búa kết thúc sinh mạng của một miền Nam tự do không cộng sản. Bây
giờ nói gì thì cũng quá trễ.”
Langley đồng ý trên nguyên tắc với
Polgar, nhưng nhắc lại các giới chức cao cấp Hoa Kỳ cho rằng đổ vỡ là do cộng
sản Hà Nội và lúc này điều cần thiết là giúp người chạy giặc.
Ngày 21/3 trong khi quân đội Nam Việt
Nam đang rút chạy từ cao nguyên về miền duyên hải thì tòa đại sứ Hoa Kỳ một mặt
làm ra vẻ bình tỉnh để trấn an dư luận, một mặt không cho thân nhân của nhân
viên tòa đại sứ đến Sài gòn nữa và không làm gì khác hơn để đáp ứng với tình
hình (TBN: có lẽ đây là tâm lý phản ánh cái nhìn của Bộ trưởng ngoại giao
Kissinger, chuyện miền Nam Việt Nam xem như đã xong rồi).
Thấy được tâm lý đó Polgar và LaGueux
ra sức làm những gì có thể làm được để che đậy tâm lý chủ bại của tòa đại
sứ. Polgar thuyết phục tổng thống Thiệu
tái tổ chức và tìm cách nâng cao tinh thần binh sĩ và không ngừng mời Quang,
Bình, Nhã dùng cơm để bàn việc.
Ngày 22/3 Polgar cho Khiêm và Quang
xem các tấm không ảnh chụp cảnh rút quân hỗn loạn và những tổn thất của quân
đội VNCH trên đường Pleiku – Phú Bổn. Ngày hôm sau Quang trình các tấm ảnh đó
cho Thiệu xem. Đại tá William Legro cũng thuyết trình cho một số tướng lãnh
Việt Nam tình hình bi đát qua không ảnh.
Ngày Chủ Nhật 23/3 Polgar báo cáo về
Washington rằng: Hà Nội đang thắng lớn, Nam Việt Nam đang thua đậm trong khi
tòa đại sứ Hoa Kỳ bất động! Polgar cho biết Hà Nội đã đưa 5 sư đoàn trừ bị (có
nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc) vào Nam bỏ ngỏ miền Bắc và yêu cầu Langley thông báo
cho Bộ trưởng ngoại giao Kissinger và Bộ trưởng quốc phòng Schlesinger rằng –
theo nhận xét của ông – miền Nam Việt Nam đang sụp đổ.
Chiều hôm đó Langley hỏi Polgar quân
đội Nam Việt Nam tổn thất đến mức độ nào và Thiệu tính phản công ra sao để Hoa
Kỳ kịp gởi vũ khí cần thiết tới. Langley lượng định ông Thiệu có thể sẽ mất Đà Nằng
và có thể cả Tây Ninh và muốn biết ông Thiệu định giữ trận tuyến ở đường ranh
nào. Trả lời trong ngày Polgar nói tình hình bi đát hơn người ta có thể tiên
đoán 10 ngày trước. Nhưng các thành phố Đà Nẵng, Quy Nhơn, Phan Thiết có thể
giữ làm nơi gom quân và bảo vệ tiềm năng quân đội cho một trận đánh quyết liệt
sắp tới. Thiệu chưa có ý định lập một phòng tuyến nào ngoài nỗ lực cứu vãn
những gì có thể cứu vãn.
Ngày 25/3 Langley định cho phép Polgar
bắt đầu di tản những đối tượng cần di tản, nhưng tỏ ý quan ngại phản ứng bất
lợi trong dân chúng. Polgar cho biết sự lo ngại đó không cần thiết vì với thái
độ bất hợp tác của quốc hội Mỹ cộng thêm việc hàng ngàn nhân viên Việt – Mỹ hốt
hoảng từ các tỉnh phía Bắc chạy xuống đã đủ gây kinh hãi cho dân chúng tại Sài
gòn.
Về chiến lược, Polgar nhận thấy cả hai
phía Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đều lúng túng thiếu đường lối chỉ đạo. Ông đề nghị
tướng Fred C. Weyend, nguyên tư lệnh MACV nên đến Sài gòn tìm hiểu tình hình.
Washington chấp thuận đề nghị của Polgar và phái đoàn gồm tướng Weyand,
Shackley, George Carver và Martin quá giang lên đường ngày 27/3.
Ngày 26/3 Polgar báo cáo rằng tinh
thần chiến đấu dũng cảm của quân đội VNCH “như chúng ta từng biết” không còn
nữa sau vụ rút ra khỏi cao nguyên và Hà Nội có thể kết thúc sự tồn tại của VNCH
một cách nhanh chóng nếu họ muốn, ngoại trừ có áp lực quân sự và chính trị đối
với Hà Nội, chẳng hạn như Hoa Kỳ khai thác miền Bắc đang bỏ trống, và vận động
Nga khuyên Hà Nội đừng hấp tấp mà hố. Chiều ngày 26/3 Hoa Kỳ rút khỏi Tây Ninh
bằng trực thăng.
Một báo cáo nội bộ CIA tại Sài gòn cho
biết tướng Viên, Tham Mưu Trưởng quân đội rất bi quan. Theo Viên, tái phối trí
hay không tái phối trí cũng không cứu được miền Nam, ngoại trừ một cuộc phản
công mạnh mẽ bằng B-52 của không lực Hoa Kỳ .
Tại Sài gòn Thiệu ra lệnh cho Quang và
Bình tìm mọi cách chận đứng các tiếng nói phản chiến của bà Ngô Bá Thành và của
các linh mục Công giáo, và ngày 28/3, sau những cảnh hỗn loạn tại phi trường Đà
Nẵng hôm 27/3, Shackley báo cáo cho Colby biết kế hoạch giữ Đà Nẵng không thể
thực hiện được. Ngày 27/3 phi trường Đà Nẵng mất an ninh vì quân lính và dân
chúng chen chúc nhau dành chỗ và chuyến bay thứ nhất của Hoa Kỳ chỉ chở được
1/3 số người trong danh sách do Hoa Kỳ thiết lập. Chuyến bay thứ hai phải lén
đậu một chỗ khuất trên phi đạo mới lấy được đủ số người trong danh sách. Riêng
nhân viên tình báo Hoa Kỳ an toàn rời Đà Nẵng trong ngày bằng phương tiện
chuyên chở riêng của CIA.
Polgar thúc dục Quang cho Thiệu biết
nếu không tái lập được an ninh tại phi trường thì Hoa Kỳ sẽ hủy bỏ nỗ lực di
tản người Mỹ và người Việt bằng máy bay. Hình như tổng thống Thiệu không được
báo cáo chính xác về tình hình hỗn loạn tại phi trường Đà Nẵng.
Được lệnh của Thiệu, nhưng tướng Ngô
Quang Trưởng tư lệnh Quân đoàn 2 cũng khoanh tay không tái lập được trật tự phi
trường. Ngày 28/3 lãnh sự Mỹ tại Đà Nẵng Albert Francis ra lệnh chấm dứt chương
trình di tản bằng máy bay chuyển sang dùng đường biển.
Hừng đông ngày 28/3 lợi dụng trời còn
tối Hoa Kỳ cho một chiếc phà cặp bến sông Đà Nẵng để di tản 3.000 người Việt
làm việc với Hoa Kỳ. Tin bị lộ khoảng
1.000 người không có trong danh sách tràn lên bè, chen lấn xô đẩy nhau, té
xuống sông và nhiều người chết đuối. Phà được vội kéo ra, một số đông trong
danh sách 3000 người của Hoa Kỳ còn lại trên bờ. Đêm hôm sau tòa lãnh sự lại
cho nhiều phà cập bến, nhưng chỉ có một số vào được.
Lãnh sự Mỹ nhờ một tàu kéo (tugboat)
của Úc, chiếc Osceola giúp. Sáng ngày 29/3 chiếc Osceola rời bến sông Đà Nẵng
an toàn chạy ra biển với nhân viên người
Mỹ và một ít người Việt thuộc cơ sở CIA và tòa lãnh sự Mỹ. Đang còn trên
sông một chiếc thuyền máy nhỏ chở lính TQLC chạy áp lại phía sau lái bất chấp
chiếc Osceola bắn thị uy. Hank Boothe, một nhân viên an ninh Mỹ bước ra sau lái
và lời qua tiếng lại rất căng thẳng với
một binh sĩ TQLC lăm lăm một khẩu súng lục chĩa thẳng vào người Boothe. Sau
cùng không khí bớt căng thẳng, người lính TQLC kéo ổ đạn cho thấy súng không có
đạn. Boothe yêu cầu các binh sĩ TQLC hãy lên các thuyền đánh cá khác lúc này đang
bu quanh chiếc Osceola.
Ra đến biển, từ chiếc Osceoala có thể
thấy vô số thuyền máy đánh cá đủ loại chỡ lính có, thường dân có chạy lung tung
trên biển. Hạm đội 7 dàn ngoài khơi trong hải phận quốc tế không biết đón được
bao nhiều người. Osceola đánh điện kêu cứu theo luật hàng hải quốc tế và các
thuyền buôn đang chạy qua vùng Đà Nẵng đã tích cực đáp ứng nhưng không giúp gì
được vì hỗn loạn.
Đêm 29/3 bốn nhân viên CIA và
những nhân viên tòa lãnh sự ngủ trên
chiếc Osceola chờ trời sáng chuyển qua một chiếc tàu lớn hơn để vào Sài gòn.
Khi Osceola cặp vào chiếc tàu buôn Pioneer Commander thì thấy trên tàu đã có
hằng trăm lính TQLC với quang cảnh rất hỗn loạn. Tuy nhiên hành khách Mỹ Việt
của chiếc Osceola lên tàu an toàn, và sau đó giúp thuyền trưởng tổ chức bảo vệ
an ninh đài chỉ huy và phòng máy. Trong đêm 30/3 nhiều lính TQLC định lên chiếm
đài chỉ huy, nhưng nhân viên an ninh Mỹ ngăn chận và đuổi đi.
Tổng kết lại, tòa lãnh sự Mỹ và CIA
phối hợp nhau đã di tản được khoảng 50.000 người ra khỏi Đà Nẵng, nhưng nhiều
người Việt trong số từ 3.000 đến 4.000 người làm việc với Hoa Kỳ và thân nhân
của họ vẫn còn kẹt lại.
Ngày 27/3 trên chiếc máy bay chở phái
đoàn tướng Weyand đi Việt Nam Shackley tóm tắt cho đại sứ Martin biết tình hình
hỗn loạn tại phi trường Đà Nẵng, Martin có vẻ không tin. Đến Sài gòn, và sau
khi Đà Nẵng đã rơi vào tay cộng sản Polgar đưa Vince Daly, một nhân viên CIA
của trạm Đà Nẵng đến gặp để tường trình trực tiếp cho Martin, Martin vẫn chưa
tin và nói có thể ông sẽ đi Đà Nẵng để đích thân quan sát tình hình. Polgar hỏi
máy bay ông đại sứ làm sao có thể đáp xuống một phi trường do quân lính cộng
sản kiểm soát? Hoạt cảnh này có lẽ là hoạt cảnh đại sứ Martin bắt đầu đóng để
bảo đảm một cuộc rút chạy an toàn cho đến ngày 30/4/1975! Theo chính sách của
đại sứ Martin, Polgar bắt đầu cho ra những tin tức lạc quan.
Đà Nẵng thất thủ trong hỗn loạn như
một gáo nước lạnh dội suốt miền Nam. Tổng thống Thiệu cũng mất bình tỉnh. Ngày
30/3 không một viên chức nào có tầm cỡ ứng trực tại dinh tổng thống. Ngày 2/4
Shackley và Polgar gặp tổng thống Thiệu và thấy ông không kềm chế được xúc động
phải bật khóc. Shackley ghi nhận Vùng 1 và Vùng 2 mất đã làm cho tinh thần binh
sĩ và dân chúng miền Nam hoàn toàn suy sụp. Dân cũng như quân miền Nam đều cho
Hoa Kỳ phản bội và đồng ý với nhau một điều là miền Nam chỉ có thể sống còn nếu
Hoa Kỳ dùng B-52 dội bom vào các đoàn quân Bắc việt đang nghênh ngang tiến về
Sài gòn.
Trong hai điệp văn Shackley gởi về
Langley trong hai ngày 31/3 và 2/4 Shackley tiên đoán hau điều có thể xẩy ra.
Thứ nhất là quân đội miền Bắc tiến thẳng vào Sài gòn thanh toán chính quyền
miền Nam bằng vũ lực. Thứ hai, Hà Nội ngưng tiến quân, ép thành lập một chính
phủ liên hiệp để hiến cho miền Nam một cách đầu hàng. Polgar và Martin luôn
luôn chờ đợi tín hiệu thứ hai, nhưng nó không bao giờ tới. Phái đoàn Weyand
cũng thấy không có gì để thuyết phục Hà Nội chớ nên dùng sức mạnh để chiếm miền
Nam lúc này, ngoại trừ Hoa Kỳ dùng không lực yểm trợ và ồ ạt viện trợ xăng nhớt
súng đạn cho quân đội VNCH.
Sau khi chiếm Đà Nẵng quân đội cộng
sản tiến ra vùng duyên hải. Ngày 1/4 bộ đội cộng sản tiến sát Nha Trang. 10:30
sáng đại tá Lý Bá Phẩm, tỉnh thị trưởng Khánh Hòa Nha Trang kiêm tiểu khu
trưởng báo cho Hoa Kỳ biết Nha Trang đã bỏ ngỏ. Tổng lãnh sự Mỹ vội rời Nha
Trang và vào lúc 11:17AM cơ sở CIA đóng cửa và khoảng xế trưa chủ sự CIA Robert
Chin và toàn bộ nhân viên rời Nha Trang bay về Sài gòn. Chương trình di tản
nhân viên người Việt làm việc với Hoa Kỳ và thân nhân bằng đường biển không
thực hiện được vì sự ra đi đột ngột của người Mỹ. Sau này kiểm điểm lại có 50%
trong số này tự xoay xở vào đến Sài gòn .
Ngày 2/4 Langley cho Polgar biết Bộ
ngoại giao sắp ra lệnh di tản toàn bộ nhân viên Mỹ và những người Việt có thể
bị Hà Nội trả thù ra khỏi Sài gòn. Con số này ước lượng một triệu người. George
Carver nói kế hoạch di tản này là kế hoạch của “người điên”, vì sự di tản sẽ tạo ra hỗn loạn còn hơn sự hỗn
loạn trong trường hợp không làm gì cả. Carver chỉ thị Polgar không nên động
tỉnh gì cho đến khi có lệnh, và nếu di tản rất có thể phải đổ bộ một sư đoàn
TQLC được yểm trợ bởi Không quân chiến thuật. Phụ tá Bộ trưởng quốc phòng
Philip Habib quyết định di chuyển thân nhân, còn nhân viên và công chức Mỹ thì
cho di tản nhỏ giọt từng nhóm nhỏ để tránh tin đồn “Mỹ bỏ chạy”. William Colby,
giám đốc CIA dặn rằng nếu phía chính quyền Việt Nam chất vấn thì nói Vùng 1 và
Vùng 2 đã mất, công việc ít nên các cơ sở Hoa Kỳ tại Việt Nam giảm nhân số theo
nguyên tắc hành chánh thôi (TBN: ông Colby quả có óc khôi hài!). CIA chỉ định
William Johnson bố trí người ở lại sau khi Sài gòn sụp đổ để lấy tin. Không
biết Johnson làm ăn thế nào sau này CIA không nhận được một tin tức tình báo
nào cả.
Ngày 2/4 Thiệu cho Shackley và Polgar
biết ông dự tính lập một chính phủ rộng rãi để hy vọng Hà Nội thấy thích hợp
bàn chuyện ngưng bắn. Ngày 3 tháng 4 Polgar báo cáo với Langley rằng tướng
Không quân Nguyễn Cao Kỳ và Chủ tịch Thượng viện Trần Văn Lắm cũng định thành
lập một chính phủ như vậy mà không có Thiệu. Kế hoạch là Thượng viện thông qua
một Quyết Nghị yêu cầu Thiệu từ chức. Polgar thấy kế hoạch của Kỳ khó thực hiện
vì Thiệu sẽ không dễ bị ép như vậy.
Sáng ngày 8/4 Trung úy Nguyễn Thành
Trung của Không quân VNCH đào ngũ dùng phản lực cơ ném bom dinh Độc Lập. Cũng
trong ngày tin tình báo của CIA từ Hà Nội cho biết Hà Nội đã lấy quyết định
thanh toán Nam Việt Nam bằng sức mạnh quân sự vào thời điểm do Hà Nội chọn lựa,
không thương thuyết, không liên hiệp, dù Thiệu từ chức hay dù Hoa Kỳ mở lại
đường tiếp vận quân trang vũ khí cho quân đội VNCH.
Lúc này Nội các của Khiêm hoàn toàn tê
liệt. Tổng thống Thiệu cũng không buồn liên lạc với Martin. Ngày 10/4 khi báo
cáo về Washington các cuộc tấn công của cộng quân quanh Sài gòn Polgar tiên
đoán Hà Nội sẽ tiến vào Sài gòn khoảng
tháng 6/75. Martin lúc này nghĩ Thiệu ra đi là tốt nhưng ông không thấy ai có
thể thay thế. Riêng Polgar nhận định
rằng, ngoại trừ Hoa Kỳ đổi ý mạnh tay can thiệp bằng vũ lực, cách tốt nhất còn
lại để tránh đổ máu là Thiệu từ chức và thành lập một chính phủ gọi là “liên
hiệp quốc gia” như một cách đầu hàng và Hoa Kỳ vận dụng mọi sức ép quốc tế (như
cung cách Hoa Kỳ đã làm khi quân đội Do Thái tiến vào Ai Cập năm 1973) kêu gọi
Hà Nội ngưng tiến quân. Nếu không, Nam Việt Nam sẽ bị đánh gục trong một thời
gian ngắn và không một người Việt Nam nào có thể chạy thoát.
Về phần di tản, có lẽ kinh nghiệm của
các vụ di tản Pleiku, Đà Nẵng cho Polgar thấy một cuộc di tản đông đảo ra khỏi
Sài gòn không phải là chuyện dễ làm nên Polgar trở nên dè dặt theo đường lối
của Martin. Khác với một Polgar lúc nào cũng nhận định dứt khoát rõ ràng dựa
vào thực tế của ông trước đây, bây giờ Polgar hay nói đến giải pháp liên hiệp
và ngưng bắn. Ông dự tính chỉ di tản ồ ạt người Mỹ và thân nhân khi Biên Hòa
mất và đường bộ Sài gòn – Vũng Tàu bị cắt.
Ngày 10/4 trong một báo cáo lời lẽ
trung thật Polgar kết luận: “Tháng 2/1975 chúng ta có nhiều đường an toàn rút
khỏi Việt Nam và Nam Việt Nam còn nhiều ưu thế để tồn tại, nhưng chúng ta đã để
cho cơ hội vuột khỏi tầm tay (TBN: ý Polgar muốn nói sau khi cộng sản vi phạm
Hiệp định Paris đánh chiến Phước Long mà Hoa Kỳ vẫn bất động) khuyến khích Hà
Nội làm tới. Và bây giờ thì không còn gì nữa, ngoài sự thất bại!
Theo Polgar lúc này chỉ còn 4 bước:
(1) di tản nhanh chóng người Mỹ ở một mức độ sao cho không tạo ra cảm tưởng Mỹ
đang trốn chạy (2) vận động ngưng bắn qua Nga Sô và Pháp (3) ép Thiệu từ chức
và thành lập chính phủ liên hiệp để đầu hàng [TBN: thực tế có ép Thiệu từ chức
và đầu hàng nhưng không có khâu liên hiệp!] (4) thương thuyết với Hà Nội để có
thì giờ di tản người Việt có thể bị Hà Nội trả thù [TBN: chương trình HO thực
hiện điều này nhưng chỉ thực hiện được sau khi sĩ quan quân đội VNCH và công
chức cao cấp của chính quyền miền Nam đã bị trả thù trong các trại cải tạo!].
Theo Polgar giải pháp 4 bước này giúp rữa mặt mày cho Hoa Kỳ và giúp Hà Nội
tránh được tiếng vi phạm một hiệp định được quốc tế công nhận.
Lúc này vấn đề di tản an toàn là mối
lo chung từ Washington đến Sài gòn. Hoa Kỳ có trách nhiệm đối với 250.000 người
có quan hệ với Hoa Kỳ chưa kể toàn bộ sĩ quan, binh sĩ và công chức các cấp của
chính quyền miền Nam Việt Nam.Tin cho biết nếu thấy người Mỹ “bỏ chạy” mà không
ngó ngàn gì đến người Việt một số đơn vị quân đội VNCH có thể đơn phương lấy
sáng kiến giữ người Mỹ lại làm con tin để bảo đảm sự ra đi của họ và vợ con.
Giải pháp đưa đến một sư đoàn TQLC để
yểm trợ cuộc di tản được gạt bỏ vì những hệ lụy không thể lường trước được./.
Kỳ tới:
Chương
9: Con đường đầu hàng và di tản
Chương
10: Một quyết định quân sự
Trần
Bình Nam
Sept.
19, 2009
Trần Bình
|
http://www.tranbinhnam.com |