CIA và các ông Tướng
(Phần
7: ôn cố tri tân)
Trần Bình Nam
Dưới nhan đề: “CIA và các ông Tướng” và liên tiếp trong 6 Phần tôi đã giới thiệu
và tóm tắt nội dung một tài liệu mật của Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA)
nói về mối quan hệ làm việc giữa CIA với các tướng lãnh miền Nam Việt Nam (*)
từ tháng 11 năm 1963 sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ cho đến ngày
30/4/1975 khi quân đội Bắc Việt tiến chiếm Sài gòn. Tài liệu đã được giải mật
bởi cơ quan CIA ngày 19 tháng 2 năm 2009.
Đọc và tóm tắt tài liệu “CIA và các ông Tướng” (CIA And The
Generals) tôi nhận ra rằng những gì đa số chúng ta biết về cuộc chiến Việt Nam
và sự kết thúc bi thảm của nó chỉ là những sự việc thấy từ bên ngoài.
Các cựu tướng lãnh quân đội VNCH cũng
như một số chính khách đã viết nhiều tập Hồi Ký, hồi ký chiến tranh cũng như
hồi ký chính trị, có giá trị và hữu ích cho kho tàng sử liệu Việt Nam. Nhưng
đọc xong tài liệu “CIA và các ông Tướng”
của cơ quan CIA tôi nhận ra thêm rằng, các cuốn Hồi Ký nói trên đều là những
tập sách ghi lại sự việc mà mỗi tác giả trong hoàn cảnh và vị trí riêng đã đóng
và đã thấy như là những nhân vật trong một cuốn phim. Và cuốn “CIA và các ông Tướng” là cuốn sách của
người đạo diễn, cuốn sách giúp chúng ta hiểu các nhân vật trong cuốn phim. Nó
giải thích tại sao vai này hành động thế này, vai kia hành động thế kia.
Trong thời gian 12 năm từ khi ông Ngô
Đình Diệm bị lật đổ cho đến ngày 30/4/75, mọi việc tại Sài gòn hầu như đều ở
trong tay người Mỹ. Các tướng lãnh xuất hiện trên chính trường miền Nam chỉ để
thi hành chính sách của người Mỹ qua tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Sài gòn, chính yếu
là Sở phụ trách tình báo CIA. Các tướng lãnh mỗi người một khả năng, một hiểu
biết về chính trị khác nhau và có thể có phản ứng khác nhau trước các diễn
biến, nhưng nếu không theo đường lối của Hoa Kỳ thì sẽ bị gạt ra ngoài trò
chơi.
Các cuộc đảo chánh liên tiếp từ tháng
11/1963 cho đến lúc tướng Nguyễn Văn Thiệu tuyên thệ nhậm chức tổng thống năm
1967 đều là những biến cố chính trị do quyết định của tòa đại sứ Hoa Kỳ nằm
trong chiến lược “be bờ” (containment) để chận đứng làn sóng xâm lăng của cộng
sản quốc tế do Liên bang Xô viết chủ xướng và yểm trợ, mà bên cạnh sườn là sự
đe dọa bành trướng của chủ nghĩa cộng sản từ Trung quốc xuống vùng Đông Nam Á
châu .
Trước hết người Mỹ giúp ông Diệm để
duy trì một miền Nam không cộng sản. Khi ông Diệm không củng cố nổi một chính
quyền vững mạnh được sự hậu thuẩn của nhân dân Nam Việt Nam, người Mỹ muốn gởi
quân đến giúp. Ông Diệm không đồng ý. Ông quan niệm một cách hữu lý rằng sự
hiện diện của quân đội Mỹ tại Nam Việt Nam sẽ làm cho cuộc chiến đấu bảo vệ tự
do của nhân dân miền Nam Việt Nam mất chính nghĩa. Và khi ông Ngô Đình Nhu, bào
đệ ông Diệm, người cố vấn thân cận của ông gặp riêng đại diện của Hà Nội để tìm
một giải pháp giữa người Việt Nam với nhau thì Hoa Kỳ quyết định tổng thống
Diệm phải ra đi để thay bằng một nhân vật lãnh đạo khác sẵn sàng cho phép Hoa
Kỳ đưa quân đến Việt Nam.
Cơ quan tình báo Hoa Kỳ đã bố trí sẵn
một số tướng lãnh “thân hữu” và chỉ cần bật đèn xanh là các vị tướng này hành
động. Và cũng với cung cách như vậy Hoa Kỳ thực hiện các cuộc thay thế lãnh đạo
từ năm 1963 cho đến ngày 30/4/1075.
Sau khi đảo chánh ông Diệm, tướng
Dương Văn Minh và nhóm “5 tướng” (Minh, Đôn, Xuân, Kim, Đính) có ý liên lạc với
Hà Nội để tính chuyện trung lập hóa miền Nam theo đường lối của Pháp thì lập
tức nhóm “5 tướng” bị tướng Nguyễn Khánh “chỉnh lý”. Đến khi Khánh cho Đại tá
Lê Văn Nhiều (Giám đốc Trung ương Tình báo của Khánh) tiếp xúc với Hà Nội để
bàn chuyện chấm dứt chiến tranh thì Khánh phải ra đi.
Tướng Nguyễn Văn Thiệu và tướng Nguyễn
Cao Kỳ có lập trường chống cộng sản dứt khoát nên hai tướng Thiệu Kỳ được sự
ủng hộ của Hoa Kỳ. Nguyễn Cao Kỳ nếu khéo léo có thể được Hoa Kỳ ủng hộ. Nhưng
tính Kỳ bốc đồng, đôi khi tuyên bố “khó hiểu” như muốn đào ngũ ra với người anh
em miền Bắc nên Hoa Kỳ nghi ngờ và dồn sự ủng hộ cho Thiệu, và dùng Thiệu kềm
chế Kỳ để không xảy ra điều gì đáng tiếc.
Thiệu với lập trường “4 Không”, hoàn
toàn đáp ứng chính sách của Hoa Kỳ trong giai đoạn đó. Nhưng đến khi Hoa Kỳ nói
chuyện với Bắc Kinh và giải quyết bàn cờ Đông Nam Á một cách khác hơn là chính
sách “be bờ” thì Hoa Kỳ không còn cần “4 Không” của Thiệu. Và như một quy luật
Thiệu phải ra đi, nhường chỗ cho một nhân vật trước kia Hoa Kỳ đã mời đi chỗ
khác là tướng Dương Văn Minh để đóng lại ván bài Việt Nam.
Về mặt quan hệ quốc tế Hoa Kỳ không
làm điều gì sai trái vì quốc gia nào cũng có chính sách bảo vệ quyền lợi của
mình, và các liên minh liên kết đều có tính cách giai đoạn, nhất là Hoa Kỳ là
quốc gia lãnh đạo “Thế giới Tự do” chống lại cuộc chiến tranh “nhuộm đỏ toàn
cầu” của Liên bang Xô viết.
Các quốc gia liên kết với Hoa Kỳ trong
sách lược thế giới (của Hoa Kỳ) nếu muốn có tiếng nói trong sách lược chung,
quốc gia đó cần có 2 điều kiện. Thứ nhất là có tiềm năng kinh tế riêng của
mình. Thứ hai là có người lãnh đạo giỏi.
Sau Thế chiến 2, Hoa Kỳ giúp nước Đức,
Nhật Bản, và năm 1953 sau khi cứu Nam
Hàn khỏi bị Bắc Hàn thôn tính, Hoa Kỳ cũng muốn sai bảo các quốc gia đó như Hoa
Kỳ sau này đã từng sai bảo Nam Việt Nam. Nhưng người Đức, người Nhật và người
Nam Hàn biết cách tự đứng vững trên đôi bàn chân của mình. Trong một thời gian
dài được sự bảo vệ của Hoa Kỳ, các nước Đức, Nhật, Nam Hàn tự tay chấn hưng nền
kinh tế quốc gia và đóng góp vào sự phồn thịnh chung của thế giới. Họ có thể
nuôi lính, nuôi dân bằng tự lực sản xuất. Và trong tình thế nhờ vả Hoa Kỳ, các
nước Đức, Nhật, Nam Hàn có những nhà lãnh đạo xứng đáng với thời cuộc.
Những điều kiện đó, không may miền Nam
Việt Nam không có. Chúng ta không có những nhà lãnh đạo giỏi biết dựa vào nhu
cầu chiến lược của Hoa Kỳ sau 1954 để xây dựng một miền Nam tự lập, một điều có
thể làm được vì miền Nam là đất trù phú và là một vựa lúa thiên nhiên không lúc
nào cạn. Sống trên một vựa lúa thiên nhiên mà trong suốt thời gian từ 1963 trở
đi Nam Việt Nam phải dùng gạo của Hoa Kỳ! Và khi không nuôi nổi dân, nuôi nổi
lính, thì làm thế nào Nam Việt Nam có thể tự trang bị để đương đầu với một cuộc
chiến tranh xâm lược bởi người anh em miền Bắc được sự ủng hộ của khối cộng sản
quốc tế nếu không dựa vào đôi cánh tay luôn luôn rộng mở của Hoa Kỳ.
Vì không có kinh tế riêng, những người
lãnh đạo Nam Việt Nam, dù là xuất thân từ hàng quan lại Nam Triều, từ các
trường quân sự và dân sự của Pháp, hay được đào tạo tại Sài gòn và Hà Nội, có
bằng tiến sĩ hay chỉ mảnh bằng Tú Tài cũng không thể không vâng lời ông đại sứ
Hoa Kỳ tại Sài gòn.
Sự vâng lời mỗi người một khác. Tài
liệu “CIA và những ông Tướng” cho
chúng ta thấy có những ông Tướng hợp tác với tình báo Hoa Kỳ, có người có
lương, có người không lương, và mỗi người hợp tác trong một cung cách khác
nhau.
Tình báo trong thời đại nào cũng là
một nghề nguy hiểm và bị nghi ngờ. Và dư luận thường cho rằng làm việc với CIA
là xấu. Điều này không đúng. Hợp tác với tình báo của một nước đồng minh để
cùng phục vụ quyền lợi chung của hai nước trong đó phục vụ quốc gia mình là
chính thì chẳng những không sai trái mà còn là một công tác mang ý nghĩa một sự
hy sinh đáng ca ngợi. Nhưng nếu hợp tác với tình báo nước bạn để phản lại quyền
lợi của quốc gia mình thì sự hợp tác đó là một sự hợp tác cần ghi vào sử sách
để nhớ.
Tình chiến hữu quốc tế giữa Hoa Kỳ và
tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không còn thắm thiết khi Hoa Kỳ muốn quyết định tất
cả mọi việc theo ý mình tại Paris nhưng ông Thiệu không đồng ý. Ông có đủ sáng
suốt để thấy mối nguy cho Nam Việt Nam nếu Hoa Kỳ đồng ý cho Hà Nội để lại quân
đội Bắc Việt đã xâm nhập Nam Việt Nam trong bản Hiệp định Paris.
Hoa Kỳ phối hợp hai gọng kềm để áp lực
ông Thiệu phải theo ý của Hoa Kỳ để Hoa Kỳ có thể rút quân đội ra khỏi Việt Nam
và đòi lại tù binh. Gọng kềm thứ nhất là dọa cắt viện trợ. Gọng kềm thứ hai là
dùng những nhân vật cao cấp và cận kề nhất với ông Thiệu để áp lực ông.
Ông Thiệu rất cô đơn trước hai gọng
kềm này. Trước gọng kềm viện trợ ông có thể cười, nhưng trước gọng kềm thứ hai
từ những người thân tín nhất của mình ông chỉ có thể khóc. Và quả thật ông
Thiệu đã hai lần khóc, trong đó có một lần khóc chung với Phó tổng thống Trần
Văn Hương. Đó là những giọt nước mắt nóng hổi đổ cho quê hương cần được ghi vào
lịch sử.
Về con người chúng ta có nhiều khuyết
điểm hơn là ưu điểm. Do giòng giống hay là hậu quả của một nền giáo dục thiếu căn
bản quá lâu qua nhiều thế kỷ là câu hỏi dành cho các nhà nghiên cứu. Chúng ta
thông minh và là một dân tộc cần cù chịu thương chịu khó, nhưng chỉ thông minh
và cần cù cho cá nhân chứ không thông minh và cần cù vì đất nước.
Do đó chúng ta thiếu người lãnh đạo có
tầm vóc. Chúng ta có tinh thần vọng ngoại và ít tin tưởng vào chính mình. Chúng
ta chạy theo những cái đang lên và coi thường những thế lực đang xuống. Nói đơn
giản chúng ta không có cái nhìn xa, và do đó chúng ta không có chính sách.
Vào đầu thế kỷ 20, trước sự du nhập
của văn hóa và văn minh cơ khí Tây phương và sự lu mờ của nước Trung Hoa phương
Bắc người trí thức Việt Nam chúng ta chỉ biết cóp nhặt văn hóa Tây phương vô
điều kiện và chúng ta coi thường “chú chệt” mà không biết rằng “chú chệt” cười
cười “nị ngộ” sao cũng được nhưng chú nắm hết kinh tế của Việt Nam trong tay và
chú biết văn hóa của chú đã yên vị lâu đời trong đầu mỗi người Việt. Và chỉ chờ
thời điểm (như hôm nay) là chú nắm cổ toàn bộ vận mạng của nước Việt Nam.
Lãnh đạo quân sự và chính trị của Hoa
Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam có nhiều khuyết điểm, nhưng chưa chắc quyết định
chiến lược can thiệp của người Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam là một quyết định sai
lầm. Nhưng phía miền Nam chúng ta – vì thiếu người tài, vì thiếu chí - đã không
lợi dụng cơ hội để xậy dựng một miền Nam tự túc về kinh tế và đặt một nền móng
cho sự canh tân đất nước. Cho nên khi người Mỹ nhận ra rằng miền Nam không phải
là một đồng minh có bãn lãnh họ liên miên thay đổi lãnh đạo và khi nhận ra rằng
đồng minh Nam Việt Nam không có ý chí để tự tồn họ phải tìm một sách lược khác
và bỏ rơi chúng ta một cách tàn nhẫn theo đúng cung cách của người Tây phương
quyết định là làm.
Miền Bắc Việt Nam cũng không khá gì
hơn. Hà Nội chạy theo một lý thuyết kinh tế lỗi thời làm thui chột kinh tế miền
Bắc, và trước áp lực của Liên bang Xô viết dồn mọi tiềm năng nhân lực cho cuộc
chiến bành trướng chủ nghĩa mà họ nhất định phải thắng “dù phải đốt cháy cả
dãyTrường Sơn!”
Miền Bắc toàn thắng. Việt Nam thống
nhất trong điêu tàn. Và khi người đồng minh Liên bang Xô viết sụp đổ không đủ
sức viện trợ kinh tế như Hà Nội chờ đợi Việt Nam chỉ còn một con đường là lệ
thuộc vào Trung quốc.
Bài học gì người Việt Nam cần rút ra
hôm nay, đứng trước thế kỷ 21 mới bắt đầu non một thập niên và hứa hẹn nhiều
biến chuyển quan trọng có thể quyết định sự mất hay còn của Việt Nam trên bản
đồ thế giới?
Sự hâm nóng của bầu khí quyễn đang
thay đổi môi sinh buộc con người, trong đó có chúng ta, phải biến đổi để thích
ứng. Con người không đủ khôn ngoan và tự chủ để hủy bỏ vũ khí nguyên tử nên thứ
vũ khí nguy hiểm này sẽ trở thành một thứ vũ khí thông thường và thế giới lúc
nào cũng ở trong một bầu thuốc súng chỉ chực nổ. Cuộc tranh chấp văn minh Tây
phương và văn minh Hồi giáo sẽ là một trong những thực tế của đời sống thế giới
sau khi Hoa Kỳ chấm dứt thí nghiệm đưa một người da đen lên làm tổng thống.
Nhưng biến chuyển lớn nhất của thế kỷ
là quyết tâm trở thành siêu cường của Trung quốc và cuộc đụng độ khó tránh khỏi
giữa Hoa Kỳ với Trung quốc. Biến chuyển này sẽ chi phối mọi sinh hoạt chính trị
và kinh tế trên toàn thế giới.
Việt Nam nằm ngay trên chiến trường
nhỏ là chiến trường Đông Nam Á và nếu không khôn khéo rút bài học cũ chúng ta
lại sẽ biến thành một thứ tiền đồn.
Quan sát tình hình Á châu và Đông Nam
Á ai cũng đồng ý rằng Việt Nam đang bị Trung quốc đe dọa, và Việt Nam đang rơi
vào đôi cánh tay thủ đoạn của Trung quốc.
Chính sách nào để Việt Nam tồn tại như
một quốc gia độc lập? Trong thế kỷ trước mắt Việt Nam không có con đường nào
khác hơn là liên kết với các quốc gia trong vùng, nhưng quan trọng hơn hết là
liên kết với Trung quốc và Hoa Kỳ. Cả hai khối thế lực này đều cần Việt Nam để
chuẩn bị cho cuộc so kiếm thư hùng của thế kỷ.
Nhưng muốn có chính sách trước hết cần
hai điều kiện rút ra từ bài học của cuộc chiến vừa qua. Thứ nhất Việt Nam phải
có khả năng tự lực trong khung cảnh mới của thế giới. Tự lực đây không phải là
chỉ có đầy đủ lương thực để có thể ăn no mặc ấm mà phải có tiềm năng kỹ nghệ và
sản xuất.
Thứ hai là phải đào tạo những con người
Việt Nam. Vì thiếu bản lãnh chúng ta đã để cuộc tranh chấp ý thức hệ trên thế
giới thành một cuộc nội chiến tương tàn. Cần đạo tạo lại một lớp người lãnh đạo
có “tâm” và có “hồn” . Cần sửa đổi hệ thống giáo dục, trước hết từ cấp Sơ học
cho đến cấp Trung Học hướng về những khái niệm yêu người, yêu đất nước, biết
quý trọng những giá trị Việt Nam, những ý niệm sơ đẳng phổ cập về dân chủ, đạo
đức và tự do tín ngưỡng, quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc. Và nền giáo dục này
cần được làm gương bởi lãnh đạo các cấp. Cấp đại học cần hướng về giáo dục thực
tế, liên kết chặt chẽ sinh hoạt đại học với các cơ sở sản xuất lớn để khuyến
khích sáng kiến khoa học kỹ thuật và khả năng phát minh. Chính sách của Việt
Nam là sẵn sàng làm Thợ để sẽ làm Thầy, và sự chuyển nhượng khoa học kỹ thuật
qua các cơ sở nước ngoài đầu tư tại Việt Nam phải là một chính sách quốc gia.
Dùng thế liên kết Trung quốc và Hoa Kỳ
để trước hết bảo vệ lãnh thổ và bảo tồn nền độc lập dân tộc, bảo vệ quặng mõ và
túi dầu dưới đáy biển của chúng ta. Chúng ta sẽ học bài học “bầu ơi thương lấy
bí cùng”của Đức quốc sau khi thống nhất.
Chúng ta sẽ học bài học xây dựng kinh tế của Nhật Bản trong điêu tàn sau Thế
chiến 2.
Tài liệu “CIA và Các Ông Tướng”cho chúng ta một bức tranh ảm đảm của một giai đoạn lịch sử Việt Nam, nhưng là một
bức tranh rất thật trong bang giao quốc tế “bụng đói đầu gối phải bò”. Nó cho
chúng ta những dữ kiện để nhìn lại con người Việt Nam. Chúng ta sẽ không hãnh
diện tự mãn với “bốn ngàn năm văn hóa”. Chúng ta cần nghiêm chỉnh tự vấn: Bốn
ngàn năm văn hóa ở đâu mà lại làm cho Việt Nam, với đất nước phong phú như vậy,
con người thông minh như vậy lại rơi vào hoàn cảnh chỉ chực mất nước hiện nay?
Có những bài học cá
nhân cần suy ngẫm:
Với tất cả khuyết điểm về lãnh đạo và
nghệ thuật trị quốc, tổng thống Ngô Đình Điệm nhất định không chịu để người Mỹ
đưa quân đến Việt Nam mà hậu quả là cái chết của ông và người em là một tấm
gương dũng cảm. Và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu khóc mà ký bản Hiệp định Paris
biết rằng đó là bản văn khai tử Nam Việt Nam là cái khóc của một người có trí
bị dồn vào cửa chết.
Thế còn ông Hồ Chí Minh? Ông Hồ Chí
Minh là một người Việt Nam nổi tiếng trên thế giới hơn bất cứ một người Việt
Nam nào trong hậu bán thế kỷ 20. Và không ai chối cãi ông là một nhà chính trị xuất
chúng, một nhà tổ chức tài ba. Nhưng gia tài ông để lại là một “nước Việt
buồn”. Và mới đây tài liệu “Sự thật về Hồ Chí Minh” bằng DVD do linh mục Nguyễn
Hữu Lễ và ông Trần Quốc Bảo, Chủ tịch Tổ Chức Phục Hưng Việt Nam thực hiện dù
không tránh được những khuyết điểm về kỹ thuật và nội dung, nhưng qua sự tham
dự đông đảo của đồng bào Việt Nam trên toàn thế giới không trừ một góc trời nào
trong những lần ra mắt trình chiếu cho thấy “dân Việt đã bỏ phiếu bằng chân” về
chỗ đứng của ông Hồ Chí Minh trong lịch sử Việt Nam. Cụ Hoàng Văn Chí, một
người từng làm việc với ông Hồ chí Minh đã phán đoán về ông Hồ một cách ấn
tượng trong cuốn sách “Từ Thực Dân đến Cộng Sản” rằng ông Hồ Chí Minh sáng như
mặt trời, nhưng nếu mặt trời mang ấm áp đến cho nhân loại thì ông Hồ đem cái
sáng đốt cháy nhân dân. Thật là bất hạnh cho dân tộc Việt Nam!
Một vài gương cá nhân
trong cuốn “CIA và các ông Tướng” cần
được ghi lại:
Út, một người tài xế làm việc cho CIA
phút chót đã an toàn trong tòa đại sứ Hoa Kỳ chờ di tản đã liều chết vượt bức
tường người đang vây kín tòa đại sứ để tìm những người bạn ông biết cần cứu.
Và tấm gương phục vụ đất nước của đại
sứ Graham Martin là một tấm gương sáng cho những nhà lãnh đạo trên thế giới. Để
giữ cho Hoa Kỳ khỏi mang tiếng bỏ chạy ông quyết định ở lại chu toàn công việc
và quyết định ra đi với những người lính TQLC cuối cùng trên chuyến trực thăng
cuối cùng. Ông phải ra đi sớm hơn một chút trước đe dọa bị lính TQLC dùng sức
mạnh áp tải lên máy bay do lệnh của tổng thống Hoa Kỳ, Gerald Ford.
Đó là những bài học
“Ôn Cố Tri Tân” của cuốn “CIA và Các Ông
Tướng”.
Trần Bình Nam
Oct.
1, 2009
Ghi chú:
(*)
Trong bài này các cụm từ :
Nam
Việt Nam được hiểu là miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở xuống
Bắc
Việt Nam được hiểu là miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở lên
Việt
Nam được hiểu là nước Việt Nam từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu
Chúng
ta được hiểu là mọi người Việt Nam trong và ngoài nước
Trần Bình
|
http://www.tranbinhnam.com |