CIA và các ông Tướng
(Phần
3)
Chương
3: Hoa Kỳ tìm đường rút lui
Chương
4: Trận tấn công Mậu Thân và nỗ lực của
Hoa Kỳ chính trị hóa cuộc
chiến Việt
Nam.
Hoa Kỳ tìm đường rút lui:
Tháng 3, 1965 khi Trung đoàn 3 TQLC Hoa
Kỳ đổ bộ lên Đà Nẵng, quân số Hoa Kỳ tại Việt Nam là 27.000 người. Ngày 6/4
quân Mỹ bắt đầu hành quân đánh nhau với quân Bắc việt. Tháng 5 Lữ đoàn 173 Dù
tới. Và vào tháng 6 năm 1966 quân số Hoa Kỳ tại Việt Nam lên đến 285.000 người.
Mùa hè năm 1965, trước khi tổng thống
Johnson cho đưa quân đến Việt Nam, bộ Ngoại giao Hoa Kỳ yêu cầu CIA dò dẫm tìm
xem có sự bất hòa nào giữa Mặt trận Giải phóng miền Nam (MTGP) với Hà Nội không
để mở đường thương thuyết, nhưng Phó giám đốc CIA Richard Helm cho rằng đó là
một ý kiến thiếu thực tế, vì sự dọ dẫm qua một nước thứ ba không thể giữ kín và
sẽ làm cho Hà Nội cũng như Sài gòn nghĩ rằng nỗ lực bảo vệ miền Nam của Hoa Kỳ
đã suy mòn. Mãi một năm sau CIA mới thực sự mở đường dò tìm.
Trong khi đó lực lượng Phật giáo tại
Huế mở màn cuộc tranh đấu phản đối chính phủ Nguyễn Cao Kỳ khi Kỳ định bổ nhiệm
một Hội đồng nghiên cứu Hiến pháp thay vì tổ chức bầu cử một Quốc hội Lập hiến
viết Hiến Pháp đặt căn bản cho sự thành hình một chính phủ dân sự.
Thời gian này nội bộ quân đội VNCH
chia rẽ nhau. Nhóm sĩ quan Công giáo và trung thành với cựu tổng thống Ngô Đình
Điệm chống nhóm ghét-Diệm và Đại Việt, và hai nhóm này cùng chống lại nhóm sĩ
quan thân Phật giáo chủ trương trung lập. Tướng tư lệnh Vùng I chiến thuật có
khuynh hướng thiên phe Phật giáo chống Kỳ. Lo ngại sự bất hòa nội bộ quân đội
làm tổn thất nỗ lực chiến tranh, CIA và các tướng Westmoreland, tư lệnh quân
đội Mỹ và tướng Lewis W. Walt chỉ huy TQLC Hoa Kỳ tại vùng địa đầu phải đứng ra
hóa giải.
Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ thay tư lệnh
này đến tư lệnh khác tại Vùng I vẫn không làm yên được tình hình chống đối
chính quyền trung ương của Phật giáo. Ngày 19/5 Thiệu và Kỳ đưa quân ra Đà Nẵng
nhanh chóng chiếm các chùa và doanh trại quân sự do phe chống đối chiếm. Tuy
nhiên phong trào chống chính quyền vẫn chưa bị dập tắt, và tòa đại sứ Mỹ lo
ngại dư luận quần chúng Hoa Kỳ sẽ bất lợi cho cuộc chiến tranh vì lúc này quân
đội Mỹ đang lãnh phần hành quân.
Tại Huế, cuộc tranh đấu có màu sắc
chống Mỹ. Các Phật tử biểu tình trước tòa lãnh sự Mỹ và đốt phòng thông tin Hoa
Kỳ. Đại sứ Lodge hốt hoảng trước biến chuyển này và ông đánh điện báo cáo cho
tổng thống Johnson rằng có những dấu hiệu “hiển nhiên” cho thấy cộng sản đã xâm
nhập Phật giáo. Trong hồi ký của Peer de Silva, ông ta cũng dùng những danh từ
nặng nề kết án Thượng Tọa Trí Quang, và William Colby cũng vậy. Tuy nhiên theo
CIA về mặt tình báo không có thông tin nào vững chắc chứng tỏ rằng phong trào
tranh đấu của Phật giáo do cộng sản chủ mưu. Cuối tháng 6, Kỳ dẹp tan nhóm quân
nhân chống đối ở miền Trung và ổn định tình hình. CIA cũng chấm dứt chương
trình trợ cấp cho thầy Trí Quang.
Giữa năm 1966 khi chính phủ Nguyễn Cao
Kỳ tổ chức bầu cử quốc hội lập hiến, CIA lại liên hệ với các ông tướng trong
việc yểm trợ ngân khoản vận động . Qua yêu cầu của tướng Nguyễn Ngọc Loan, Giám
đốc cảnh sát quốc gia và An ninh quân đội, với sự đồng ý của đại sứ Lodge, ngày
25/8 CIA cấp cho Loan 10 triệu đồng (tương đương 85.000 mỹ kim) để bù vào ngân
khoản của cảnh sát Loan đã dùng để yểm trợ cuộc vận động tranh cử của các ứng
cử viên thân Kỳ. Sau đó John Hart đến Sài gòn thay cho Gordon Jorgensen làm
trưởng cơ sở CIA Sài gòn.
Hart muốn làm việc sát với các tướng
hơn, và giữa tháng 11 đã yêu cầu Langley cấp 14 triệu đồng cho Loan để củng cố
vị trí của Kỳ. Loan nói Kỳ cần số tiền này để tránh sự xoi mói của các tướng
trong Hội đồng Lãnh đạo Quốc gia rằng Kỳ đã dùng quỹ đen của văn phòng thủ
tướng cho mục tiêu chính trị, và sự xoi mói này đang đe dọa vị trí của Kỳ.
Langley không chấp thuận đề nghị của John
Hart vì nghi ngờ Loan và đề nghị thay thế Loan. Số tiền 10 triệu đồng đã giúp
Loan chỉ làm cho Kỳ bớt lúng túng (trước sự nhòm ngó của Hội đồng Lãnh đạo)
nhưng đã không giúp ích gì vào kết quả cuộc bầu cử. Hai ứng cử viên thân Kỳ tại
Đà Nẳng đều thất cử.
Tướng Nguyễn Ngọc Loan là một sĩ quan
thông minh, quyền biến và tuyệt đối trung thành với Kỳ, nhưng Loan có tính độc
lập ít nghe lời cố vấn của Hoa Kỳ và đôi khi có tác phong rất “hề” như đi làm
mặt đồ trận, chân đi dép cao su và không bao giờ đúng hẹn, và đặc biệt coi
thường quyền cá nhân của người khác và xem thường các chương trình của chính
phủ để thu phục lòng dân. John Hart sau này nhận xét rằng, Hart thích tính của
Loan dù chưa có lần nào Loan nghe lời ông ta, và có lẽ Loan là giới chức Việt
Nam duy nhất dám thẳng thắn nói với giới chức Hoa Kỳ rằng ông không đồng ý khi ông không đồng ý việc
gì. Khi Langley tính thay thế Loan, CIA
và tòa đại sứ Hoa Kỳ đứng trước một vấn đề nan giải là ai có khả năng thay
Loan. Hart nói rằng nếu Hoa Kỳ muốn ủng
hộ Kỳ thì không thể thay thế Loan. Loan đã chứng tỏ rất hữu ích trong hai nỗ
lực của CIA trong năm 1967 là: (1) Phát triển một đường giây tiếp xúc với thành
phần MTGP có khả năng độc lập với Hà Nội và (2) Duy trì sự ổn định của chính
phủ Kỳ.
Hoa Kỳ có ý tìm một giải pháp chính
trị cho cuộc chiến Việt Nam từ mùa Xuân năm 1966 khi John Hart đến Sài gòn thay
thế Peer de Silva. Hart cho mở một phòng (gọi là Viet Cong Branch) chuyên lo
việc tìm đường giây tiếp xúc với MTGP không qua các thông tin từ phía VNCH. Đến
cuối năm 1966 văn phòng này đã mở được vài đường giây.
Tại Washington, từ đầu năm 1966 bộ
trưởng quốc phòng McNamara đã nghĩ cuộc chiến không thể thắng bằng quân sự và
tổng thống Johnson đã có khuynh hướng tìm một giải pháp chính trị. Tổng thống
Johnson bổ nhiệm đại sứ W Arerell Harriman làm đại sứ hòa bình (Ambassdor for
Peace).
Qua tin tức cung cấp bởi một nhân viên
người Việt làm việc với phái bộ viện trợ kinh tế Mỹ tại Sài gòn, Washington
tưởng rằng đã có điều kiện cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ (chủ tịch MTGP) bỏ MT và
ra lệnh cho tòa đại sứ Hoa Kỳ chuẩn bị một chiếc máy bay cho Thọ bay sang Cam
bốt. Được lệnh chuẩn bị máy bay, CIA cho điều tra và khám phá ra đây là tin
“dỏm”. Sau vụ này CIA tìm cách tiếp xúc
với con gái của Thọ ở Sài gòn, nhưng cô ta nói cha con cô bất hòa và cô không
chịu hợp tác.
Trong nỗ lực tiếp xúc với MTGP, CIA
tìm cách tiếp cận với Trần Bửu Kiếm, ủy viên ngoại giao của MTGP, một người –
theo hồ sơ CIA – có tư tưởng phóng khoáng và vợ của Kiếm đang bị cảnh sát của
Loan giam giữ. CIA và đại sứ Lodge đề nghị Việt Nam trả tự do cho bà ta để lấy
lòng Kiếm. Sự tiếp xúc này cũng là một cách đo lường xem MTGP và lực lượng quân
sự của MT có độc lập với Hà Nội không và nếu có thì độc lập đến mức độ nào.
Ngày 28/1 thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ cho đại sứ Lodge biết Việt Nam đồng ý kế
hoạch tiếp xúc (mặc dù Kỳ biết khởi đầu Hoa Kỳ thực hiện việc tiếp xúc này sau
lưng Kỳ). Russ Miller, phụ tá của John Hart sắp xếp vụ trao đổi tù nhân với Kỳ
và Loan. Ngày 16/2 Loan giao bà Phạm thị Yến (vợ của Trần Bửu Kiếm ) cho CIA.
Sau vài ngày tẩm bổ cho lại sức CIA làm việc với bà Yến và bà tiết lộ bà đồng ý
một giải pháp chính trị hơn là giải pháp quân sự của Hà Nội. Bà Yến nói bà
không tin có sự bất hòa nào giữa MTGP và Hà Nội. Bà từ chối đề nghị của CIA lén
mang radio để liên lạc, nhưng hứa sẽ chuyển thư hay lời nhắn gì của CIA đến
chồng bà. Russ Miller đích thân hộ tống bà Yến đến biên giới Miên-Việt trong
tỉnh Tây Ninh ngày 28/2 và giao cho MT tại đó. Trong hai tháng CIA không được
hồi âm. Ngoài Trần Bửu Kiếm, CIA còn mở đường tiếp xúc qua tướng Dương Văn
Minh, khi đó đang lưu vong ở Bangkok. CIA muốn ông Minh tiếp xúc với người em
là Dương Văn Nhựt, sĩ quan cao cấp trong quân đội Bắc Việt. Minh từ chối yêu
cầu này nói rằng tuy là anh em, nhưng mỗi người một lý tưởng khác nhau.
Ngày 1/4/67, Quốc hội Lập hiến thông
qua bản Hiến pháp và dự trù bầu tổng thống vào mùa Thu. Ngày 1/5/67 đại sứ
Ellworth Bunker đến Sài gòn thay Lodge. Ông Bunker tích cực can thiệp vào cuộc
bầu cử mà CIA đã chuẩn bị sân chơi từ tháng 2/67 khi yêu cầu Kỳ thành lập một
MT đoàn kết quốc gia để chuẩn bị ra ứng cử tổng thống. Tướng Westmoreland và
đại sứ Bunker có ý ủng hộ Thiệu. Trong khi đó Washington muốn Hoa Kỳ giữ thái
độ trung lập giữa Thiệu và Kỳ. Tháng 3/67 một nhà xuất bản Hoa Kỳ đề nghị xuất
bản một cuốn sách cho Kỳ. CIA muốn nhân dịp này yêu cầu Kỳ công khai xác định
lập trường hợp tác với Hoa Kỳ, đồng thời (để tăng uy tín của Kỳ) đề nghị Kỳ
tuyên bố tặng tiền bán sách cho các cơ sở từ thiện. Dự tính này rơi vào quên
lãng. Ngày 12/5 Kỳ tuyên bố ra ứng cử tổng thống.
Tháng 5/1967 Loan đi công tác Hoa Kỳ
và công khai nói rằng tại sao Kỳ không thể dùng bộ máy chính quyền trong tay để
vận động tranh cử. Phó giám đốc CIA Richard Helm và giám đốc Cục Viễn Đông của CIA
William Colby nguội lạnh trước ý kiến này và lưu ý Loan nên để tâm đến việc
tiếp xúc với MTGP. Loan không phản đối và đề nghị CIA cứ làm việc đó với đường
giây riêng của mình.
Việc Loan muốn dùng thế chính phủ vận
động cho Kỳ, trong khi tòa đại sứ Hoa Kỳ muốn giữ thế trung lập giữa Thiệu và
Kỳ buộc đại sứ Bunker tìm cách vận động cách chức Loan. Nhưng Bộ Ngoại giao Hoa
Kỳ chỉ muốn dùng Kỳ bảo Loan không nên làm quá trớn.
Miller gặp Kỳ ngày 21/6 để áp lực. Kỳ
hứa sẽ nói với Loan và sẽ chuyển chức vụ giám đốc An ninh Quân đội (của Loan)
cho người khác. Trước đó Miller đã dùng hai đàn em thân tín của Kỳ (làm việc
cho CIA) gặp Kỳ đề nghị Kỳ nên triệu tập các tỉnh trưởng và quận trưởng toàn
quốc về họp và chỉ thị không được dùng
thế chính quyền để ủng hộ Kỳ để chứng tỏ Kỳ không lạm dụng quyền lực. Trong
buổi gặp này Kỳ nói với Miller rằng Kỳ có sáng kiến sẽ triệu tập các tỉnh, quận
trưởng cũng với với mục đích như vậy. Miller biết “sáng kiến” này đến từ đâu!
Đại sứ Bunker hài lòng với cách thức
gián tiếp “thuyết phục Kỳ” như vậy để thực hiện bề ngoài trung lập theo chỉ thị
của bộ Ngoại giao.
Nhưng một biến chuyển bất ngờ xẩy ra
(?). Hội đồng tướng lãnh Việt Nam sau 2 ngày họp, ngày 30/8/67 tuyên bố đã ép
Kỳ đứng phó cho liên danh Thiệu-Kỳ để tránh chia rẽ quân đội. Kỳ giải thích
quyết định này trong riêng tư rằng ông làm vậy vì “quyền lợi quốc gia” và rằng
ông Thiệu đồng ý sau khi đắc cử mọi quyền hành đều giao cho Kỳ (như Kỳ là tổng
thống) và Thiệu chỉ là tổng thống làm vì.
Ngoài liên danh Thiệu-Kỳ còn có nhiều
liên danh dân sự trong đó có liên danh của ông Trần Văn Hương là nổi bật nhất.
Hoa Kỳ không muốn thấy một tổng thống dân sự nhưng vẫn tỏ ra trung lập giữa hai
ứng cử viên Thiệu và Hương. Ngày 21/6 Kỳ gặp Miller và đề nghị cử Nguyễn Xuân
Phong, một nhân vật thân CIA và là một viên chức trong bộ máy tranh cử của liên
danh Thiệu-Kỳ làm trung gian giữa liên danh Thiệu-Kỳ với CIA. Phong có nhiệm vụ
thông báo cho Miller mọi kế hoạch tranh cử của liên danh và nhận đề nghị của
Miller. Ngày 20/7 Phong báo cáo với Miller rằng Thiệu sẵn sàng đóng vai trò phụ
sau khi đắc cử như Kỳ đã nói trước đây. Và qua Phong, trong tháng 7/67 Kỳ nhận
của Hoa Kỳ 5 triệu đồng để tổ chức một Mặt Trận tôn giáo và chính trị ủng hộ
liên danh quân nhân.
Dù yểm trợ như vậy, CIA vẫn lo ngại
liên danh Thiệu-Kỳ có thể thất cử, nên đồng ý với đề nghị của Phong để cho Loan
dùng cảnh sát công an “vận động” phiếu cho Thiệu-Kỳ trong những vùng Thiệu-Kỳ
có khả năng không có phiếu. Ngày 26/7 Miller chuyển cho Phong một cương lĩnh
vận động tranh cử (sau khi đại sứ Bunker đã duyệt) gồm hứa tăng lương cho quân
nhân và công chức, chống tham nhũng và phát triển đời sống vùng nông thôn. Kỳ
đồng ý và hình như không thông báo gì cho Thiệu. Kỳ yêu cầu Hoa Kỳ yểm trợ thêm
tiền và dọa rằng nếu Hoa Kỳ không giúp Kỳ phải dùng Loan “mượn tiền” nơi một số
người. Dù vậy Hoa Kỳ vẫn không giúp thêm, và vài ngày sau Phong cho Miller biết
Kỳ đã giải tỏa 8 triệu đồng cho bộ máy tranh cử trong vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Tiền đâu ra ? CIA thắc mắc thì Phong cho biết tiền do Loan xoay. Đại sứ
Bunker còn một đề nghị sau cùng là Kỳ từ chức thủ tướng 2 tuần trước ngày bầu
cử, nhưng Kỳ thẳng thừng gạt bỏ ý kiến của Bunker.
Giữa tháng 8/67 liên danh Trần Văn
Hương yêu cầu Hoa Kỳ yểm trợ tài chánh tranh cử. Đã giúp liên danh Thiệu-Kỳ,
đại sứ Bunker muốn giúp Hương để giữ thế trung lập, nhưng Washington không
thuận.
Một điều đáng ghi nhận là trong cuộc
tranh cử, Thiệu âm thầm để Kỳ và Loan tự do làm việc với tòa đại sứ Mỹ qua
trung gian Nguyễn Xuân Phong.
Ngày 3/9/1967 Thiệu-Kỳ thắng cử với
35% số phiếu bầu. một kết quả quá khiêm nhường so với ưu thế của liên danh quân
đội. CIA cho rằng có lẽ nhân viên các cấp bỏ tiền vận động vào túi thay vì dùng
để vận động.
Sau cuộc bầu cử người ta thấy Thiệu
không im lặng như trước bầu cử và không đóng vai trò phụ cho Kỳ như mọi người
tưởng. Hoa kỳ lo ngại sự thể này có thể làm Kỳ từ chức Phó tổng thống hay tệ
hơn là công khai kèn cựa với Thiệu tổn hại đến tinh thần quân đội và nỗ lực
chiến tranh.
Đụng chạm đầu tiên: Đài truyền hình
NBC muốn phỏng vấn Thiệu và Kỳ trong chương trình “Meet The Press”. Thiệu nói
với NBC chỉ cần phỏng vấn tổng thống là đủ. Kỳ nổi giận và Miller phải tìm cách
khuyên Kỳ tự chế.
Trong khi đó Hart lo việc vận động
Quốc hội Lập hiến hợp thức hóa kết quả bầu cử và dọn đường làm việc với Thiệu.
Mười ngày sau Miller gặp Thiệu và Thiệu đồng ý nhận Miller làm trung gian giữa
phủ tổng thống với tòa đại sứ. Ngày 2/10 Quốc hội Lập hiến hợp thức hóa sự đắc
cử của liên danh Thiệu - Kỳ và ngày 31/10 tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó
tổng thống Nguyễn Cao Kỳ tuyên thệ nhậm chức.
CIA cũng bắt đầu bận rộn chuẩn bị cuộc
bầu cử quốc hội dự trù tổ chức vào tháng 12/1967. Bộ Ngoại giao Mỹ đồng ý chi
3.000 mỹ kim cho mỗi đối tượng dân biểu thân Hoa Kỳ (Bunker chỉ đề nghị $1.500
mỹ kim).
Sáu tuần lễ trước đó Loan bắt được một
đường giây với MTGP do việc cảnh sát bắt được một cán bộ cấp thấp của MT là
Trương Đình Tòng. Anh ta mang một lá thư của Trần Bạch Đằng gởi đại sứ Bunker
đề nghị trao đổi tù nhân. Đại sứ Bunker yêu cầu Thiệu giúp đồng thời làm việc
với Loan. Ngày 9/7/67 Loan giao Trương Đình Tòng cho CIA để trả về Cục R theo
đường Củ Chi. Hơn 10 ngày sau Tòng trở lại mang thư của Trần Bạch Đằng cho biết
sẵn sàng nói chuyện với Hoa Kỳ về việc trao đổi tù nhân. CIA trang bị dụng cụ
liên lạc cho Tòng (để tránh việc đi qua đi lại dễ bị lộ) và ngày 28/9 CIA đưa
Tòng về cục R qua biên giới Việt Miên. CIA yêu cầu tướng Westmoreland ngưng tấn
công trong vùng đó 24 giờ để bảo đảm an toàn cho Tòng.
MTGP không dùng dụng cụ liên lạc do
CIA cung cấp. Ngày 25/10 Tòng trở lại mang thư cho biết ngoài việc trao đổi tù
nhân MT sẵn sàng trao đổi các vấn đề khác nhưng khẳng định không nói chuyện với
chính quyền của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Thời gian này Phó tổng thống
Hubert Humphrey viếng Sài gòn và ông tỏ ra quan tâm nhiều đến việc móc nối với
MTGP hơn là để thì giờ hỏi han sự tiến triển của chương trình bình định.
Ngày 4/11 đại sứ Bunker đích thân
thông báo tổng thống Thiệu về cuộc tiếp xúc với MTGP. Hôm sau 5/11 Miller gặp
Thiệu để bàn vào chi tiết kế hoạch. Thiệu đồng ý để Loan làm việc với CIA về
mặt kỹ thuật, riêng ông ta sẽ quyết định mặt chính trị. Hoa Kỳ cảm thấy khó
khăn khi cùng làm việc với Thiệu và Loan để thảo bức thư trả lời cho MTGP.
Thiệu lo rằng việc liên lạc với MTGP dù có chính phủ Việt Nam tham dự hay không
cũng đều làm mất tư thế chính trị của chính phủ Việt Nam nếu bị tiết lộ. Thật
ra đã có sự tiết lộ và CIA nghi Loan là thủ phạm. Loan dọa từ chức cho rằng
tổng thống Thiệu bổ nhiệm nhiều nhân vật thân cộng vào chính phủ làm trở ngại
chương trình “chống cộng sản phá hoại” (subversion) của ông .
Ở mức độ kỹ thuật, thời gian này, có
sự bất đồng ý kiến giữa Loan và Hoa Kỳ. Loan chỉ đồng ý trả tự do cho Tòng và
người mang thư đầu tiên của Trần Bửu Kiếm, trong khi Hoa Kỳ muốn trả tự do cho
10 tù nhân trong danh sách của MTGP. Được Miller thông báo chi tiết, tổng thống
Thiệu cho rằng người Mỹ quá “ngây thơ” đối với cộng sản và cho rằng việc trao
đổi tù nhân sẽ làm giảm uy tín của ông đối với quân đội và nhân dân miền Nam.
Đầu tháng 12/67 Bunker đích thân gặp
Thiệu và thuyết phục Thiệu đồng ý trả tự do cho 3 người gồm bà Mai Thị Vàng, vợ
của Trần Bạch Đằng, Tòng và người mang thư đầu tiên của Kiếm. Tòng và người
mang thư của Kiếm được trả tự do tại phía Tây Sài gòn trong vùng cộng sản kiểm
soát. Riêng bà Vàng sau thời gian dưỡng sức, CIA đưa bà đến căn cứ Củ chi, từ
đó bà theo một đoàn xe của quân đội Mỹ đi Tây ninh và được thả dọc đường, nơi
có hẹn trước vào ngày 5/1/68. Ngày 18/1 Tòng trở lại cho biết MTGP sẽ trả tự do
cho 2 tù nhân Mỹ và 14 tù nhân Việt Nam.
Ngày 30/1, cộng sản mở cuộc tấn công
Mậu Thân, nhưng Hoa Kỳ vẫn không lơ là theo dõi việc trao trả tù nhân. Ngày 3/2 Miller gặp Thiệu yêu cầu Thiệu thả
thêm tù nhân đế đáp lễ MTGP. Theo một danh sách của Miller cộng sản đã trả tự
do cho 70 quân nhân Mỹ Việt trong khi phía Việt Nam mới thả 40 tù nhân bị
thương và bệnh hoạn. Miller áp lực Thiệu rằng Washington (ý là tổng thống
Johnson) hết sức quan tâm đến vụ trao đổi tù nhân này.
Hy vọng Kỳ có thái độ hợp tác với Hoa
Kỳ (về việc tiếp xúc với MT qua việc trao đổi tù nhân) hơn tổng thống Thiệu,
ngày 8/2 Miller gặp Kỳ và cho Kỳ biết – theo Tòng – cộng sản đánh trận Mậu Thân
là để tạo điều kiện cho cuộc thương thuyết nên Việt Nam nên thả thêm tù nhân.
Kỳ hứa sẽ thảo luận thêm với Thiệu.
Sau đó ngày 22/2/68 Tòng và 4 tù nhân khác được trao trả cho cộng sản. Tòng
không bao giờ trở lại Sài gòn nữa và cuộc trao đổi tù nhân với MTGP chấm dứt.
Mấy tháng sau cuộc thương thuyết tìm
một giải pháp chính trị cho Việt Nam chính thức chuyển sang bàn hội nghị tại
Paris.
Trận tấn công Mậu Thân và nỗ lực của Mỹ chính trị hóa cuộc chiến
Việt Nam
Khoảng tháng 12/67 tình báo Hoa Kỳ
đoán biết cộng sản sắp mở một cuộc tấn công. Và cuộc tấn công đã diễn ra tại
Sài gòn ngày 31/1 vào lúc ngưng bắn nhân dịp Tết Mậu Thân. Cộng sản không lật
đổ được chính phủ Việt Nam như dự tính, nhưng làm trì trệ chương trình bình
định nông thôn của Việt Nam. Tướng Westmoreland xin thêm quân số mặc dù lúc đó
Hoa Kỳ đã có 495.000 binh sĩ tại Việt Nam.
Sự thể tình báo Hoa Kỳ không nắm được
tin tức chính xác trước một cuộc tấn công rộng lớn toàn quốc như vậy làm cho
CIA rất lúng túng. CIA chỉ biết vài tin tức và không đủ để có một bức tranh
tổng quát. Do tin từ tỉnh Long An, CIA biết cộng sản định dùng cuộc tấn công để
áp lực Sài gòn thành lập chính phủ liên hiệp với sự tham dự của MTGP. Do tin
tức từ Nha Trang, CIA biết cộng sản dự tính chiếm Pleiku và Kontum. Hai ngày
trước cuộc tấn công CIA biết thêm tin cộng sản cho thành lập 6 phân khu quanh
Sài gòn, nhưng không đoán ra đó là sự chuẩn bị của cộng sản để đánh vào Sài
gòn.
Trước các tin tình báo này
Westmoreland cho chuyển mấy tiểu đoàn quân Mỹ về vùng Sài gòn và ra lệnh quân
đội báo động. Ngày 29/1 tình báo Việt Nam biết rõ rằng cộng sản sẽ tấn công vào
dịp Tết. Nhưng đã quá trễ để ban hành thêm những biện pháp đối phó. Một số quân
nhân đã đi nghỉ phép nhân cuộc hưu chiến Tết. Và Hà Nội đã có lợi thế “bất ngờ
chiến thuật”.
Khi quân đội VNCH và quân đội Mỹ đã
chận đứng được cuộc tấn công của cộng sản, George Carver thuộc trung ương CIA phụ
trách Việt Nam và ban tham mưu của ông bắt đầu bắt tay vào việc phân tích sự
mạnh yếu quân sự và chính tri của Hà Nội và VNCH qua cuộc tấn công và phản
công. Sau khi đúc kết George Carver đưa ra một kế hoạch chấn chỉnh rộng lớn
mang tên là “Operation shock”. CIA nhận định rằng quân đội VNCH thắng về mặt
quân sự vì đã gây tổn thất lớn cho quân đội cộng sản và tiêu diệt được hạ tầng.
Nhưng sự việc cộng sản có thể giữ kín chi tiết một cuộc tấn công như vậy cho
thấy VNCH chưa tranh thủ được sự ủng hộ của quần chúng nông thôn. Và trận tấn
công Tết Mậu Thân đã tạo một cú “shock” lớn đối với chính quyền, báo chí và dư
luận dân chúng Mỹ.
Phúc trình của George Carver kết luận
rằng tâm lý của tướng lãnh Việt Nam là ỷ lại vào Mỹ nên VNCH không có chương
trình vận động và tranh thủ quần chúng, và các tướng chỉ đánh giặc cầm chừng.
CIA nhận định rằng cần thay đổi tức khắc tâm lý nguy hiểm này và cần chọn người
có khả năng để giao trách nhiệm.
Hoa Kỳ đề nghị tổng thống Thiệu giao
các bộ Quốc Phòng, Nội vụ và Phát triển nông thôn cho tướng Nguyễn ĐứcThắng. Và
giao cho Kỳ thực hiện một chương trình thanh lọc sĩ quan và công chức cấp cao
tham nhũng và bất tài và thành lập một Mặt Trận chính trị có căn bản quần chúng
gồm mọi thành phần không cộng sản.
Hoa Kỳ dự tính yêu cầu Thiệu hoàn tất
chương trình trong 100 ngày với sự giúp đỡ vật chất của Hoa Kỳ ngoài các chương
trình viện trợ hiện hữu. Hoa Kỳ tính rằng sau 100 ngày nếu Thiệu không làm được
Hoa Kỳ sẽ (1) áp lực Thiệu từ chức để thay thế bằng một nhân vật có khả năng, (2)
Hoa Kỳ có thể oanh tạc Bắc Việt và mở đường thương thuyết với Hà Nội để chuẩn
bị rút quân (3) Xem MTGP là một thực thể chính trị để tiến đến sự thành lập một
chính phủ liên hiệp. Phó giám đốc CIA Richard Helm gởi bản phúc trình đến các
cơ sở có trách nhiệm hoạch định chính sách về Việt Nam, nhưng không thấy cơ sở
nào chính thức trả lời. Ngoại trừ những bồ câu như phụ tá bộ trưởng ngoại giao
Nicolas Katzenback và thứ trưởng quốc phòng Paul Nitze khen bản phúc trình,
trong khi những diều hâu như Walt Rostow ở bộ Ngoại giao và tướng Earl Wheeler
Tham mưu Trưởng Liên quân thì chê, cho rằng thiếu thực tế.
Bản phúc trình George Carver rơi vào
sự quên lãng.Tuy nhiên bản điều nghiên này của trung ương CIA là bản điều
nghiên thấu triệt và dứt khoát nhất của Hoa Kỳ đối với cuộc chiến Việt Nam sau
trận Mậu Thân. Nó ảnh hưởng lớn đến quyết định của tổng thống Johnson ngày
31/3/68 khi ông tuyên bố ngưng dội bom một phần Bắc Việt, đề nghị với Hà Nội mở
cuộc thương thuyết và không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ 68-72 nữa.
Tại Việt Nam CIA ghi nhận quân đội
VNCH đã chiến đấu anh dũng và chận đứng được âm mưu thúc dân nổi dậy của cộng
sản, và cho rằng bản điều nghiên của George Carver và ban tham mưu của ông
không sát với thực tế. Trước sự đứng vững của chính phủ Thiệu và tổn thất lớn
lao của quân đội cộng sản dân chúng miền Nam có vẻ yên tâm hơn. Và đại sứ
Bunker thuyết phục tổng thống Thiệu nên
nhân cơ hội lên tiếng động viên thêm nữa tinh thần nhân dân miền Nam và ban bố
những biện pháp quân sự và tuyên truyền vận động quần chúng.
Nhược điểm trầm kha của miền Nam là
không nhân sự có khả năng để giúp người lãnh đạo. Người có chút uy tín lúc đó
là Thượng nghị sĩ Trần Văn Đôn, cựu tướng lãnh, thông minh, có khả năng thu hút
và còn được dân chúng mến chuộng. Đặng Đức Khôi, một người thân tín của Kỳ và
có nhiều quan hệ với CIA đã giúp Đôn thành lập Mặt trận Cứu nguy Dân tộc ra mắt
ngày 18/2/1968 với sự yểm trợ tiền bạc của CIA. Khôi, dù trung thành với Kỳ
cũng nghĩ rằng việc kèn cựa giữa Thiệu và Kỳ cần chấm dứt và Hoa Kỳ hy vọng Mặt
trận Cứu nguy sẽ làm việc với Thiệu. Nhưng tổng thống Thiệu không có ảo vọng
Mặt trận Cứu nguy (vốn do người của Kỳ kiểm soát) sẽ ủng hộ mình nên ông xúc
tiến thành lập một phong trào quần chúng khác lấy tên là Lực lượng Tự do Dân
chủ (Free Democratic Force) ra mắt tại Sài gòn trong tháng 3/68. Bối cảnh chính
trị chia rẽ này, theo CIA, thật không phù hợp với quyết định của Hoa Kỳ xuống
thang chiến tranh và bỏ ý định đánh bại Hà Nội bằng quân sự qua tuyên bố của
tổng thống Johnson ngày 31/3.
Nhân vật mới cầm đầu cơ sở CIA Sài gòn
là Ralp Katrosh sang thay thế Russ Miller (Miller đã tạm thay John Hart trước
đó). Katrosh làm việc con thoi với Thiệu và Kỳ và hứa rằng những gì người này
nói sẽ không được ông rỉ tai cho người kia nên Thiệu và Kỳ đều tưởng rằng CIA
chỉ ủng hộ mình. Trong khi đó Mặt trận Cứu Nguy của Kỳ và Lực lượng của Thiệu
đều thất bại không đoàn kết được quần chúng đứng sau lưng chính phủ. Qua
Katrosh, Bunker thuyết phục Thiệu và Kỳ lập một Liên Minh chung do hai người
cùng đứng yểm trợ gồm mọi đảng phái. Liên Minh ra mắt ngày 4/7/68 với sự đồng
hiện diện của Thiệu và Kỳ (do áp lực của tòa đại sứ) và gồm Mặt Trận của Kỳ,
Lực Lượng của Thiệu, Nghiệp đoàn Công Nông của Trần Quốc Bửu và 25 nhóm chính
trị nhỏ khác. Thiệu không có thiện cảm và cũng không có thì giờ dành cho Liên
Minh nhưng ông tham gia chỉ vì áp lực của Hoa Kỳ. Tổng thống Thiệu thường bóng
gió với Katrosh (để Katrosh báo cáo lại cho đại sư Bunker) rằng trò chơi mặt
trận quần chúng kiểu tây phương không “ăn tiền” tại Việt Nam, tại đây trong
chiến tranh tại nông thôn quân sự là chính.
Để làm việc với Thiệu và Kỳ,
Katrosh dùng Nguyễn Xuân Phong và tướng
Khiêm (do tổng thống Thiệu chuyển về từ Washington và đang giữ chức tổng trưởng
Nội vụ). Vào tháng 5/68 đại tá Trần Văn Hai thay tướng Loan sau khi tướng Loan
bị thương khi đánh nhau với cộng quân tại Chợ Lớn trong cuộc tấn công Mậu Thân
đợt 2. Đại Tá Hai cũng là một nhân vật cận kề với CIA.
Tháng 6/1968 Thiệu hoàn tất chương
trình cô lập Kỳ. Các nhân vật thân cận Kỳ và đa số làm việc với CIA đều bị gạt
ra khỏi các chức vụ then chốt, và CIA lúng túng vì thiếu người trung thành hợp
tác làm việc. Thành phần CIA đã móc nối còn làm việc cạnh ông Thiệu đều là
người không đáng tin, trong đó có một nhân vật làm việc gần gũi và có một ảnh hưởng
giới hạn nào đó đối với quan điểm củaThiệu về mặt nỗ lực vận động quần chúng.
CIA không biết sự việc này do cộng sản giựt giây hay chỉ vì quyền lợi cá nhân
và hiểu biết giới hạn. Thiệu biết nhân vật này làm việc với CIA và đôi khi dùng
sự quan hệ giữa y với Russ Miller (và sau này với Katrosh) để gián tiếp chuyển
quan điểm của mình đến đại sứ Bunker.
Trong tháng 9 và tháng 10/1968 trước
áp lực của Hoa Kỳ yêu cầu Thiệu đồng ý với đường lối thương thuyết của Hoa Kỳ
tại Paris, Thiệu hai lần báo động có đảo chánh với gợi ý gián tiếp cho Hoa Kỳ
biết Kỳ muốn đảo chánh. Để trấn an CIA báo cho các tay đàn em của Kỳ biết Hoa
Kỳ không chấp thuận bất cứ âm mưu nào chống Thiệu.
Do nhu cầu bầu cử tổng thống Hoa Kỳ
ngày 5/11/1968, ngày 31/10/1968 tổng thống Johnson ra lệnh ngưng oanh tạc trên
toàn cõi Bắc việt, và trước đó tổng thống Johnson gởi một tối hậu thư cho tổng
thống Thiệu biết Hoa Kỳ sẽ đẩy mạnh cuộc thương thuyết với Hà Nội dù Thiệu có
đồng ý hay không. Đáp lễ, ngày 2/11 tổng thống Thiệu đọc diễn văn phản đối Hoa
Kỳ, cho rằng việc ngưng dội bom và tiến hành thương thuyết với Hà Nội với mọi
giá là chủ bại. Ngày 5/11 Richard Nixon đánh bại ứng cử viên đảng Dân chủ
Hubert Humphrey và đắc cử tổng thống. Đảng Dân chủ và dư luận cho rằng thái độ
chống thương thuyết của Thiệu đã giúp Nixon đắc cử. Sự việc này làm mối quan hệ
giữa hai chính phủ Mỹ- Việt trở nên nguội lạnh gần cả tháng sau đó.
Ngày 19/11 Katrosh giúp Liên Minh 4
triệu đồng và cho Thiệu biết tổng thống đắc cử (president-elect) Nixon vẫn ủng
hộ Thiệu.
Nixon duy trì đại sứ Bunker tại Sài
gòn và thay trưởng cơ sở CIA Lapham bởi Ted Shackly. Nhiệm vụ của Shackly là
chuẩn bị cuộc đấu tranh chính trị khi hòa đàn Paris có kết quả. Lúc này tổng
thống Thiệu dùng tướng Đặng Văn Quang và Hoàng Đức Nhã để liên lạc với CIA và
quan hệ Mỹ-Việt trở nên ấm áp dần.
Tháng 1/1969 Thiệu đuổi khéo Kỳ khỏi
Sài gòn bằng cách cử Kỳ sang Paris quan sát cuộc thương thuyết. Tại đây Russ
Miller, bạn thân của Kỳ bay sang để hy vọng nhờ Kỳ đẩy nhanh cuộc hòa đàm. Ngày
7/2/69 sau khi gặp Kỳ, Miller báo cáo với Cyrus Vance trưởng đoàn thương thuyết
Hoa Kỳ rằng Kỳ chấp nhận đường lối thương thuyết với Hà Nội và MTGP của Hoa Kỳ
một cách dễ dàng, khác hẵn với quan điểm cứng rắn của tổng thống Thiệu.
Con đường chính trị
hóa cuộc chiến Việt Nam bắt đầu.
Kỳ tới:
Chương
5: Sự bối rối và làm nản lòng
Chương
6: Mỹ áp lực tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Trần
Bình Nam
Sept.
3, 2009
Trần Bình
|
http://www.tranbinhnam.com |