CIA và các ông Tướng
Lời giới thiệu:
Hôm 19/2/2009 cơ quan tình báo trung
ương Hoa Kỳ (Central Intelligence Agency – CIA) đã cho giải mật tài liệu mang
tên: “CIA and the Generals: Covert
Support to military government in South Vietnam”. Tài liệu này do ông Thomas L. Ahern, Jr., một nhân viên CIA từng
làm việc tại Sài gòn từ năm 1963 đến đầu năm 1965 đúc kết từ những tài liệu mật
của CIA. Tài liệu được giải mật sau khi cơ quan CIA đã đọc lại và gạch bỏ những
tên tuổi và địa danh không lợi cho hoạt động tình báo. Tuy nhiên nếu so chiếu
với các tài liệu khác viết về cuộc chiến Việt Nam, người đọc có thể đoán hầu hết những tên tuổi gạch
bỏ đó là ai.
Tài liệu dài 243 trang gồm chính yếu
là phần Nhập Đề của tác giả và 10 Chương. Tôi tóm tắt lại những sự
việc chính của tài liệu trong 6 bài viết: phần Nhập Đề và sau đó hai Chương
trong một bài, và sẽ lần lượt cho lên trang nhà www.tranbinhnam.com
. Mục đích tóm tắt tài liệu là “ôn cố tri
tân” về một giai đoạn lịch sử đã qua nhưng còn ảnh hưởng sâu đậm đến đời
sống của mỗi người Việt chúng ta trong cũng như ngoài nước. Và cũng là kinh
nghiệm có thể hữu ích trong mối quan hệ hiện nay giữa Việt Nam và Trung quốc,
cũng như giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Một điều cần nói là không có một tài
liệu nào, nhất là tài liệu liên quan đến hoạt động tình báo, là hoàn toàn trung
thực. Giải mật một tài liệu mật tự nó cũng có thể là một phần của một chương
trình tình báo khác. Tài liệu “CIA and the Generals: Covert Support to military
government in South Vietnam” cũng không ra ngoài quy luật đó. Cho nên sự xử
dụng những thông tin do sự giải mật tài liệu này mang lại như thế nào là trách
nhiệm của người xử dụng.
Trong phần nhập đề ông Thomas Ahern
nhắc lại quan hệ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1954 cho đến ngày
30/4/1975.
Ông viết rằng, sau khi người Pháp thất
bại tại Điện Biên Phủ, người Mỹ thay thế dần người Pháp vì người Mỹ cho rằng
nếu Việt Nam sụp đổ, toàn vùng Đông Nam Á cũng sụp đổ theo thuyết domino. Người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đình Điệm củng cố miền Nam
Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, qua trung gian ông Ngô Đình Nhu, em ruột của
ông Diệm. Cùng với các lực lượng vũ
trang của ông Diệm, CIA phát động phong trào dân vệ (self-defense units) để bảo
vệ nông thôn. Đây là kinh nghiệm chống
nổi dậy đầu tiên của CIA tại Việt Nam .
Chương trình của ông Diệm là tiêu diệt
các thành phần cộng sản để lại miền Nam trước khi rút ra Bắc theo hiệp định
Geneva. Đến năm 1959 hầu hết tổ chức cộng sản gài lại miền Nam đều bị tiêu
diệt. Nhưng chương trình bài cộng quá nặng tay và thi hành một cách bừa bãi
đụng chạm đến các thành phần không cộng trong quần chúng như thành phần thiểu
số và tôn giáo khác mà không có chương trình nâng cao đời sống nông thôn để thu
phục lòng dân nên mất dần sự ủng hộ của quần chúng. Cuối năm 1959 Hà Nội đưa
người vào Nam và làm cho sự kiểm soát của ông Diệm tại nông thôn càng ngày càng
lỏng dần.
Để cứu chế độ Diệm, Hoa Kỳ tăng cường
viện trợ quân sự và kinh tế. Đầu năm 1963 khi cao trào chống chế độ ông Diệm
của Phật Giáo nổ ra tại miền Trung, Hoa Kỳ có 12.000 cố vấn quân sự tại miền
Nam.
Cung cách đàn áp phong trào Phật giáo
của ông Diệm không phù hợp với quan niệm tự do tôn giáo của Hoa Kỳ làm cho Hoa
Kỳ bất mãn, và đồng thời sự kiểm soát nông thôn của ông Diệm càng ngày càng sa
sút, nên vào tháng 8 năm 1963 do đề nghị của đại sứ Henry Cabot Lodge, Hoa Kỳ
quyết định hạ bệ ông Diệm.
Sau khi quân đảo chánh chiếm bộ Tổng
Tham Mưu và giết đại tá Lê Quang Tung một người làm việc cận kề với CIA và là
chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt. các tướng đảo chánh kêu gọi anh em ông Diệm
đầu hàng. Ông Diệm và ông Nhu lợi dụng trời tối rời dinh Độc Lập và sau đó bị bắt
tại một nhà thờ Công giáo ở Chợ Lớn. Trước đó đại sứ Cabot Lodge có hứa giúp
hai anh em ông Diệm và ông Nhu an toàn rời khỏi Việt Nam, nhưng (khi ông Diệm
và ông Nhu bị bắt) không thấy Hoa Kỳ nhắc lại. Các sĩ quan của tướng Dương Văn
Minh, người lãnh đạo cuộc đảo chánh đã bắn chết hai ông Diệm và Nhu trên một xe
thiết giáp.
Các ông tướng làm đảo chánh nhưng
không có chương trình gì khác hơn là lật đổ ông Diệm, nên sau đảo chánh các
tướng lãnh yêu cầu CIA cố vấn trong việc cai trị quốc gia. Tuy nhiên CIA –theo
lệnh của đại sứ Lodge - không đưa ra một chương trình gì ngoài việc yêu cầu các
tướng đảo chánh tiếp tục con đường chống Cộng và để người Mỹ tham gia vào công
cuộc đó một cách tích cực hơn.
Thật ra tình hình miền Nam suy đồi
không phải chỉ do ông Diệm, mà còn do nhiều nguyên nhân khác. Như một bộ máy
hành chánh và một quân đội lỗi thời do người Pháp để lại cai trị dân với tác
phong huynh trưởng và một nền móng chính trị chưa thành nếp, trong đó các tôn
giáo, các thành phần thiểu số và các tầng lớp quần chúng trình độ khác nhau
chống báng nhau. Đa số dân chúng theo Phật giáo không có thiện cảm với một
chính quyền quá nhiều người Thiên chúa giáo. Sĩ quan trong quân đội cũng hiềm
khích nhau vì tôn giáo, chưa nói giữa người miền Bắc và người miền Nam, giữa
người Kinh với người Thượng và người thiểu số gốc Cambốt. Và trầm trọng nhất là
chế độ tư hữu ruộng đất phong kiến lỗi thời – nhất là tại đồng bằng sông Cửu
Long – làm cho người nông dân không có cơ hội thăng tiến, chỉ còn bám víu vào
sự tuyên truyền của người cộng sản để vươn lên.
Chế độ của các ông tướng thay thế ông
Diệm tuy ít độc tài hơn nhưng không có chương trình gì để đẩy lui chương trình
kiểm soát đất và giành dân của người cộng sản. Vào cuối năm 1964, cộng sản nắm
thế thượng phong và miền Nam Việt Nam chỉ chờ sụp đổ. Tháng 8/1964 do vụ tàu Maddox của Hoa Kỳ bị tấn
công trong Vịnh Bắc việt , quốc hội Hoa Kỳ thông qua quyết nghị Vịnh Bắc bộ
(Tonkin Gulf Resolution) cho phép tổng thống Johnson dùng vũ lực để bảo vệ sự
tự do lưu thông trên biển của Hải quân Hoa Kỳ. Để trả đũa Bắc Việt đưa quân đội
chính quy vào miền Nam (chứ không giới hạn là cán bộ chính trị và những đơn vị
gốc miền Nam tập kết trở về như trước). Đáp lại, từ tháng 3/1965 tổng thống
Johnson bắt đầu đưa quân đội Mỹ đến miền Nam .
Vào mùa hè 1965 quân Mỹ tại Việt Nam
lên đến 125.000 người và tăng lên nhanh chóng theo thời gian. Lực lượng này
giúp miền Nam khỏi sụp đổ và thì giờ để ổn định chính trị. Tuy nhiên qua năm
1966 tình hình miền Nam cũng không thấy khả quan, trong khi tổn thất của quân
đội Mỹ trên chiến trường tăng cao làm cho quốc hội và dân chúng Hoa Kỳ bắt đầu
thấy khó chịu vì cuộc chiến dai dẳng. Trước bối cảnh này tổng thống Johnson bắt
đầu tìm đường rút lui bằng cách tăng cường chương trình bình định và hủy diệt
hạ tầng tổ chức chính trị của cộng sản, đồng thời tìm đường giây tiếp xúc với
Hà Nội để mưu tìm một giải pháp chính trị.
Tình hình chính trị tạm ổn định sau
khi tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử tổng thống vào tháng 9 năm 1967 qua một bản
Hiến pháp mới. Tháng 2/1968 cộng sản tổng tấn công vào các đô thị miền Nam
(cuộc tổng tấn công Mậu Thân). Cuộc tấn công thất bại vì không làm sụp đổ được
chính quyền ông Thiệu, ngoại trừ làm cho chương trình bình định của ông Thiệu
dậm chân tại chỗ. Hạ tầng chính trị của cộng sản tại miền Nam sau cuộc tấn công
gần như hoàn toàn bị tiêu diệt.
Tuy nhiên cuộc tấn công tạo một tâm lý
bi quan đối với dân chúng Mỹ và báo giới
Hoa Kỳ nên không khí chống chiến tranh tại Mỹ lên cao buộc tổng thống Johnson
vào cuối tháng 3/1968 tuyên bố không ra ứng cử tổng thống lần thứ hai và đề
nghị thương thuyết với Hà Nội. Vào tháng 5/1968 khi các cuộc tiếp xúc chính
thức giữ Hoa Kỳ và Hà Nội bắt đầu tại Paris, cộng sản mở cuộc tấn công Mậu Thân
2. Cộng sản lại thất bại, quân đội Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ lấy lại thế tấn
công và cuối năm 1968 xem như bình định và kiếm soát 73% dân chúng miền Nam.
Tuy nhiên tình hình này không giúp cho
Hubert Humphrey (ứng cử viên đảng Dân chủ) đắc cử để có thể tiếp tục đường
hướng của Johnson. Tổng thống Nixon đắc cử và bắt đầu chương trình Việt Nam hóa
chiến tranh. Giữa năm 1969 tổng thống Nixon tuyên bố đợt rút quân đầu tiên.
Trong 3 năm sau đó tình hình ngang ngữa với cuộc hòa đàm Paris (bắt đầu vào
tháng 1/1969) và cuộc rút quân dần của Hoa Kỳ. Đặc điểm của tình hình chiến
trường Việt Nam trong những năm 1969-1971 là trong khi Hoa Kỳ ra sức cải tiến
và trang bị cho quân đội miền Nam thì Liên bang Xô viết và Trung quốc cũng dồi
dào viện trợ cho Bắc Việt. Hai bên Nam Bắc cố giành đất và dân chuẩn bị cho một
giải pháp chính trị từ cuộc hòa đàm Paris.
Mùa Xuân năm 1972 cộng sản Bắc Việt mở
cuộc đại tấn công miền Nam đe dọa các tỉnh cửa ngõ dẫn vào Sài Gòn, nhưng bị
đánh bại bởi quân đội Nam Việt Nam với sự yểm trợ của không lực Hoa Kỳ. Tháng
10/1972 Hà Nội tuyên bố đồng ý về một bản văn ngưng bắn và chấm dứt chiến
tranh. Dựa vào đó, trước ngày bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, cố vấn an ninh quốc gia
Henry Kissinger tuyên bố “hòa bình ló dạng” (peace is at hand). Hòa bình
thật sự chưa ló dạng nhưng lời tuyên bố của Kissinger đã giúp tổng thống Nixon
đắc cử nhiệm kỳ 2 một cách áp đảo. Sau cuộc bầu cử, Hoa Kỳ đòi thay đổi vài
điều khoản trong bản hiệp định dự thảo. Hà Nội phản ứng bằng cách rút ra khỏi
cuộc hòa đàm. Tổng thống Nixon cho oanh tạc cơ B52 đánh vùng thủ đô Hà nội và
Hải phòng trong dịp lễ Giáng sinh buộc Hà Nội trở lại bàn hội nghị và ký bản
Hiệp định Paris vào tháng 1/1973. Bản Hiệp định không buộc quân đội Bắc việt rút ra khỏi miền Nam. Hoa Kỳ tìm cách
thi hành hiệp định và giúp Nam Việt Nam tự lực. Nhưng sau đó Nixon dính vào vụ
Watergate phải từ chức (tháng 8/1974), Phó tổng thống Gerald Ford trở thành
tổng thống Hoa Kỳ.
Vào thời điểm này tòa đại sứ Hoa Kỳ
tại Sài gòn được tin tình báo cho biết quân đội Bắc Việt chuẩn bị tổng tấn công
vào năm 1975. Cuộc tấn công mở màn ngày 10/3/1975 tại cao nguyên Trung phần
Việt Nam, và kết thúc ngày 30/4/1975 khi xe tăng Bắc việt tiến vào Sài gòn và
trực thăng của đại sứ Hoa Kỳ rời mái nhà tòa đại sứ trước khi trời sáng.
Nhân số CIA tại Sài gòn khi ông Diệm
bị lật đổ gồm trên dưới 200 người. Một bộ phận lo việc bình định và tình báo.
Bộ phận khác lo việc tuyển mộ người làm việc cho CIA hay nới rộng sự liên hệ
với các viên chức chính quyền và thành phần đối lập không Cộng để thu lượm tin
tức và thúc đẩy xây dựng dân chủ.
Khi trận Mậu Thân xẩy ra, nhân số CIA
đã lên đến 1000 người, trong đó có 600 nhân viên làm việc tại 4 văn phòng CIA
tại 4 vùng chiến thuật. Từ năm 1969 khi Hoa Kỳ bắt đầu kế hoạch giảm quân, nhân sự CIA giảm dần.
Bốn vùng vẫn duy trì văn phòng nhưng mọi công tác quan trọng đều dồn về trung
tâm CIA tại Sài gòn.
Tài liệu “CIA and the Generals: Covert
Support to military government in South Vietnam” nói về hoạt động của CIA trong
nỗ lực không cho Hà Nội chiếm miền Nam sau khi ông Diệm bị lật đổ. Thoạt tiên
đại sứ Cabot Lodge cấm không cho CIA
liên lạc mật thiết với các ông tướng để duy trì tính độc lập của chính quyền
miền Nam trước dư luận quốc tế. Nhưng mấy tháng sau, khi thấy tình hình bất ổn
(vì các ông tướng bất lực), đại sứ Lodge cho phép CIA làm việc chặt chẽ với các
ông tướng để theo dõi và điều hướng tình hình đảo chánh lên đảo chánh xuống.
Quan hệ đặc biệt này của CIA đối với các ông tướng làm cho CIA đóng một vai trò
quan trọng trong các biến chuyển chính trị tại Sài gòn, chính yếu là ổn định
chính trị, không khác gì ảnh hưởng CIA đã có dưới thời tổng thống Ngô Đình
Diệm. Vào năm 1966 CIA dùng ảnh hưởng của mình để thuyết phục các ông tướng
hưởng ứng chính sách của chính quyền Johnson lúc đó đang tìm cách liên lạc với
các thành phần ôn hòa của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGP)
Trong cuộc bầu cử tổng thống tháng 9
năm 1967, CIA nhận được chỉ thị của Washington ủng hộ liên danh tướng Thiệu và
tướng Kỳ, nhưng cần tỏ vẻ trung lập và dùng ảnh hưởng tạo ra một cuộc bầu cử
ngay thẳng. Sau khi thắng cử ông Thiệu loại hết những người Bắc thân tướng Kỳ
trong chính quyền, CIA lại phải một phen vận động và tuyển mộ người miền Nam
(làm việc cho CIA).
Sau cuộc tấn công Mậu Thân, CIA triển
khai một kế hoạch thành lập những đảng chính trị có căn bản quần chúng theo mô
thức của Hoa Kỳ, nhưng ông Thiệu chưa sẵn sàng xây dựng một căn bản dân chủ cho
miền Nam nên nỗ lực này không đưa đến kết quả nào. Tuy nhiên Hoa Kỳ nghĩ rằng
ông Thiệu cần thiết cho sự ổn định chính trị nên Hoa Kỳ không thúc bách ông
Thiệu. Từ đầu năm 1970 CIA đã có kế hoạch giúp ông Thiệu tái đắc cử nhiệm kỳ 2
dự trù vào cuối năm 1971 nhưng vẫn với cung cách thế nào để tạo một hình ảnh
bầu cử dân chủ.
Qua cuộc tấn công Mậu Thân, CIA nhận
ra rằng chừng nào Nga và Trung quốc còn ồ ạt giúp Hà Nội thì chừng đó Hoa Kỳ
còn cần cố vấn và yểm trợ không lực cho Nam Việt Nam nếu muốn Nam Việt Nam sống
còn.
Khi cuộc tấn công lắng xuống, hòa đàm
Paris bắt đầu, công tác chính yếu của CIA là vận dụng để ông Thiệu chấp thuận
hướng thương thuyết của Hoa Kỳ tại Paris, và trong công tác này CIA vận dụng
nhân sự đã gài trong chính quyền ông Thiệu để áp lực ông Thiệu một cách hữu
hiệu. Sau khi ký hiệp định Paris nhiệm vụ của CIA là thúc đẩy ông Thiệu thi
hành hiệp định.
Vào cuối năm 1974, CIA biết Hà Nội sắp
mở cuộc đại tấn công vào đầu năm 1975, nhưng không có kế hoạch gì để ngăn chận.
Sau khi ông Thiệu ra lệnh rút quân khỏi cao nguyên trung phần Việt Nam tạo ra
sự hỗn loạn, và trước cảnh hỗn loạn tại Đà Nẳng CIA biết rằng khó có đủ thì giờ
di tản nhân viên Mỹ, quân nhân và viên chức Nam Việt Nam an toàn ra khỏi Việt
Nam, CIA đã thi hành kế hoạch trì hoãn bằng cách vờ thương thuyết với Hà Nội để
có thì giờ rút lui.
Đó là công tác cuối
cùng của CIA trong cuộc chiến Việt Nam./.
Kỳ tới:
Chương
1: CIA sau đảo chánh ông Diệm
Chương
2: Cabot Lodge đi, Taylor tới, Nguyễn
Khánh đi & ngôi sao Thiệu Kỳ xuất hiện.
Trần
Bình Nam
August
11, 2009
Trần Bình
|
http://www.tranbinhnam.com |