CIA và các ông Tướng
(Phần
4)
Chương 5: Sự bối rối và làm nản lòng
Chương 6 Mỹ áp lực tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Sự bối rối và làm nản lòng:
Vụ quân nhân Mỹ Bắn chết thường dân ở
Mỹ Lai vừa bị phanh phui thì giữa năm 1969 CIA dính líu vào một vụ tai tiếng vì
bị nghi ngờ có nhúng tay vào vụ thủ tiêu một điệp viên cộng sản tại Nha Trang.
Một đơn vị Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ nghi một thanh niên Việt Nam làm việc cho
Lực lượng là tay trong của cộng sản, nhưng không muốn giao cho cơ quan an ninh
Việt Nam xử lý vì sợ lộ bí mật tình báo nên ngỏ ý nhờ CIA xử lý giúp. CIA không
nhận nhưng không trả lời rõ ràng nên Lực lượng Đặc biệt tự xử lý bằng cách đem
đương sự bắn bỏ rồi thả trôi ngoài biển Nha Trang.
Shackley báo cáo nội vụ lên đại sứ
Bunker và tướng Abrams, và vụ giết người trái phép bị báo chí phanh phui làm
cho phong trào chống chiến tranh tại Hoa Kỳ thêm lửa.
Hai sự việc khác là vụ dân biểu Trần
Ngọc Châu và Huỳnh Văn Trọng cũng làm cho quan hệ giữa tổng thống Thiệu với tòa
đại sứ Hoa Kỳ tại Sài gòn giữa năm 1969 trở nên căng thẳng lúc chương trình
bình định và phát triển nông thôn đang tiến hành khả quan.
Trần Ngọc Châu là một nhân vật từng
làm việc với CIA. Châu là người vạch ra chương trình bình định nông thôn sau
khi ông Diệm bị lật đổ rất thành công tại tỉnh Kiến Hòa nơi ông làm tỉnh
trưởng. Ông Châu lập chương trình cho phép dân khiếu kiện sự sai trái của chính
quyền để qua đó tiếp cận lấy tin tức tình báo về nhân sự và cơ sở của Việt
cộng. Châu còn giúp CIA thí nghiệm một chương trình săn lùng các đảng viên lãnh
đạo của cộng sản trong tỉnh Kiến Hòa. Cuối năm 1965 CIA xin Châu về chỉ huy một
Trung tâm huấn luyện tại Vũng Tàu. Nhưng “cái tôi” của Châu quá lớn làm mất
lòng các giới chức cao cấp Việt Nam khác, nên vào năm 1967 Châu bỏ công tác
bình định, ra ứng cử dân biểu Hạ nghị viện. Châu đắc cử và giải ngũ.
Tại quốc hội Châu chủ trương tiếp xúc
với các thành phần không cộng sản trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGP), và
đầu năm 1969 Châu yêu cầu CIA giúp tạo thanh thế để Châu có thể thực hiện kế
hoạch của mình. CIA không nhiệt tình đáp ứng yêu cầu của Châu.
Tại quốc hội Châu chứng tỏ với mọi
người Châu được Hoa Kỳ ủng hộ. Đến giữa năm 1969 ông Thiệu chịu hết nổi cuộc
vận động chính trị của Châu và quyết định truy tố Châu về tội tiếp xúc với cộng
sản không có phép. Trước khi ra tay Thiệu kiểm chứng với CIA và Shackley nói
CIA thấy không trở ngại gì nếu mọi sự tiến hành trong luật pháp. Bộ Ngoại giao
Hoa Kỳ chỉ hơi ngại vụ truy tố một dân biểu có thể tạo dư luận bất lợi tại Hoa
Kỳ nên yêu cầu Bunker khuyên Thiệu thận trọng.
Thiệu vận dụng Hạ Nghị viện áp dụng
nội quy bỏ phiếu tước quyền bất khả xâm phạm của Châu và đưa Châu ra tòa án
quân sự xử 20 năm tù vào đầu năm 1970.
Tội của Châu là tiếp xúc với người anh
ruột là Trần Ngọc Hiền, một nhân viên tình báo cao cấp của cộng sản vào cuối
năm 1964. Châu thông báo việc tiếp xúc cho CIA nhưng không tiết lộ tung tích
của người Châu tiếp xúc và yêu cầu gặp đại sứ Bunker để trình bày chi tiết và
cũng không thông báo cho chính phủ Việt Nam biết. Bunker không tiếp Châu. Một
năm sau Châu lại úp mở với CIA về vụ tiếp xúc nhưng vẫn không cho CIA biết giá
trị của đường giây. Đến đây Jorgensen nghĩ rằng Châu khó chơi và muốn Châu xếp
vụ này đừng bao giờ nhắc đến nữa.
Năm 1967, do một nguồn tin khác CIA
biết đường giây của Châu và sau khi được chất vấn Châu tiết lộ tin tức về Trần
Ngọc Hiền. CIA yêu cầu gặp Hiền nhưng Châu không đồng ý.
Dù Shackley xác nhận Châu không liên
hệ gì với CIA nhưng Thiệu vẫn nghi Châu là người của CIA vì sau khi Châu bị
truy tố John Paul Vann, một cố vấn cao cấp Hoa Kỳ và chính phủ Hoa Kỳ đã mạnh
mẽ can thiệp cho Châu.
Vụ thứ hai là điệp viên cộng sản Huỳnh
Văn Trọng được gài vào dinh Độc lập làm việc cạnh Thiệu. Đầu năm 1969 CIA phát
giác nội vụ sau khi bắt được một đảng viên cộng sản chỉ đạo Huỳnh Văn Trọng.
Tháng 7/1969 CIA yêu cầu tướng Đặng Văn Quang nói với Thiệu ra lệnh bắt Trọng
và Thiệu tỏ ý muốn giải quyết nội vụ một cách kín đáo để khỏi gây tai tiếng
trong dư luận. Nhưng tổng thống Nixon sắp viếng Sài gòn và CIA cho biết họ
không thể không thông báo vụ Trọng cho Mật Vụ bảo vệ tổng thống Nixon, và Mật
Vụ sẽ không thể để Nixon vào dinh Đốc Lập nếu Trọng chưa bị bắt. Thiệu buộc
lòng bắt Trọng ngày 24/7/69.
Báo chí làm rùm beng và chỉ trích
Thiệu dùng người không thận trọng. Thiệu quay lại phiền trách CIA đã thúc bách
Thiệu bắt Trọng.
Qua điều tra người chỉ huy của Trọng
CIA biết công tác của Trọng là thuyết phục Thiệu nên mở đường giây nói chuyện
với MTGP.
Trước khi trở về Hoa Kỳ Ralph Kastrosh
đã làm cho quan hệ giữa Hoa Kỳ và tổng thống Thiệu trở nên bình thường. Katrosh
để lại lời khen tướng Nguyễn Khắc Bình vừa được bổ nhiệm làm giám đốc Đặc ủy
Trung ương Tình báo và yêu cầu Thiệu cho biệt phái nhân viên xuất sắc giúp
Bình. Thiệu không tha thiết với lời yêu cầu này vì Thiệu cho Đặc ủy Trung ương
Tình báo làm việc gần Mỹ hơn gần chính phủ Việt Nam. Cơ sở này do Hoa Kỳ đề
nghị thành lập từ năm 1960 và do Hoa Kỳ cung cấp ngân khoản điều hành. Katrosh
được tổng thống Thiệu tặng thưởng Đệ ngủ đẳng Bảo quốc Huân chương. Sau này khi
nhớ lại Katrosh nói có lẽ ông được tổng thống Thiệu có cảm tình vì cách tiếp
cận thẳng thắn của ông. Katrosh thường bắt đầu câu chuyện với Thiệu rằng: “Đây
là những gì ông đại sứ (hay chính phủ Hoa Kỳ) muốn” mà không quanh co. Quanh co với Thiệu chỉ tạo
thêm căng thẳng và thường không đạt được kết quả như ý.
Ngày 3/11/69 qua một diễn văn Nixon
xác định chính sách Hoa Kỳ cam kết bảo vệ miền Nam Việt Nam. Ba tuần sau George
Carver đến Sài gòn và ghi nhận Thiệu lên tinh thần. Tâm lý này tạo ra một kết
quả không nằm trong đường lối của Hoa Kỳ là cần vận động thu phục lòng dân qua
tổ chức chính trị. Tổng thống Thiệu nghĩ sự yểm trợ của Hoa Kỳ cần hơn là Liên
Minh này, Lực Lượng nọ. Vận động quần chúng là ưu tiên thứ tư của Thiệu, sau
các ưu tiên quân sự, bình định và kinh tế. Thiệu thường nói: “Người dân Nam
Việt Nam không thích nhồi sọ chính trị. Họ thích người lãnh đạo tốt, cơm no áo
ấm và sống không nơm nớp lo sợ.”
Ngày 4/12/69 tòa đại sứ và CIA đi đến
nhận định đã đến lúc bỏ rơi các Lực lượng và Liên minh và ủng hộ một khối có
người là Liên đoàn Công nông của ông Trần Quốc Bửu và khối quần chúng theo Phật
giáo Ấn Quang. Vào tháng 3/1970 Washington chi 225.000 mỹ kim giúp Thiệu vận
động các đối tượng trên.
Shackley sang thay Katrosh và dùng
phương pháp gián tiếp để tiếp cận với Thiệu qua trung gian các nhân vật quanh
Thiệu thân thiện với CIA. Áp lực của CIA qua khối nhân sự này (trong đó có
Khiêm) đến độ làm Khiêm nghi ngờ thiện chí của Hoa Kỳ. Khiêm nghi có bàn tay
của CIA trong các cuộc biểu tình của thương binh và sinh viên chống Thiệu để
thành lập một chính phủ liên hiệp tại Sài gòn giúp Hoa Kỳ có điều kiện kết thúc
chiến tranh.
Để mua thời gian cho Hoa Kỳ rút quân,
cuối tháng 4/70 Nixon ra lệnh quân đội Hoa Kỳ đánh qua Cam bốt để phá hủy hậu
cần của cộng sản và đuổi bắt các cấp lãnh đạo của Cục R (Trung ương Cục cộng
sản miền Nam) và tháng 5/70 tái oanh tạc Bắc Việt. Cuộc tấn công vào Cambốt
sinh ra nhiều cuộc biểu tình tại Hoa Kỳ và trong một cuộc chạm trán, lực lượng
an ninh bang Kansas đã bắn chết 6 sinh viên thuộc đại học Kent State University
và Jackson State College làm cho không khí chính trị tại Hoa Kỳ vô cùng căng
thẳng. Tháng 6/70 Hoa Kỳ rút quân ra khỏi Cambốt và Nixon ra lệnh rút thêm quân
tại Nam Việt Nam.
Cuộc tấn công của Hoa Kỳ vào Cambốt
làm cho tinh thần quân đội VNCH lên cao, và Nixon muốn nhân cơ hội dùng Khiêm
thúc bách Thiệu thi hành chương trình chống tham nhũng, giảm bớt sự lạm dụng
quyền hành của các giới chức chính quyền và tôn trọng Tối cao Pháp viện.
Tình hình biểu tình trên đường phố Sài
gòn trong giai đoạn này trông giống như những cuộc biểu tình trước khi ông Diệm
bị lật đổ, và CIA muốn dùng cuộc bầu cử bán phần Thượng nghị viện (năm 1970) để
đưa các đảng phái chính trị, Công giáo, Phật giáo vào sinh hoạt chính tri. Một
liên danh Phật giáo do luật sư Vũ Văn Mẫu thụ ủy đắc cử làm cho phong trào
chống đối của Phật giáo Ấn Quang lắng xuống.
Sau cuộc bầu cử bán phần Thưọng viện,
CIA bắt tay vào chương trình chuẩn bị cuộc bầu cử Hạ nghị viện và cuộc bầu cử
tổng thống năm sau. Hoa Kỳ muốn tổng
thống Thiệu tái đắc cử nhưng Hoa Kỳ cần có một cuộc tranh cử có hai ba ứng cử
viên để bảo đảm uy tín chính trị của Thiệu. Lúc này chưa biết Phó tổng thống
Nguyễn Cao Kỳ có ra tranh cử không, do đó Hoa Kỳ vận động tướng Dương Văn Minh
ra tranh cử, mặc dù đại sứ Bunker đánh giá khả năng của Minh thấp và cho rằng
Minh tính tình bất nhất. Đối với Hạ nghị viện lúc này CIA đã có trong tay 10
dân biểu “thân hữu”, nhưng Hoa Kỳ muốn qua cuộc bầu cử có thêm 10 dân biểu thân
hữu nữa để nắm chắc sự thông qua các bộ luật cần thiết sau này. Hoa Kỳ cũng có
kế hoạch yểm trợ tài chánh cho các ứng cử viên Hạ viện thân với Thiệu, dự trù
tổng cọng chi phí lên đến 252.000 mỹ kim. Chương trình chính của CIA là kiếm
thật nhiều phiếu cho Thiệu. Qua tướng Quang, CIA thúc tổng thống Thiệu ve vãn
khối Công giáo, người Việt gốc Hoa và khối người Thượng.
Tại Paris cuộc đàm phán nhì nhằng,
trong khi tại Việt Nam Hoa Kỳ tiếp tục đẩy mạnh chương trình Việt Nam hóa chiến
tranh và giảm quân.
Tháng 2/71 để thử nghiệm hiệu quả của
chương trình Việt Nam hóa Hoa Kỳ và Việt Nam đánh qua biên giới Lào với chiến
dịch Lam Sơn 719. Cuộc hành quân hoàn toàn do quân đội VNCH đảm trách, Hoa Kỳ chỉ
yểm trợ không lực. Quân đội VNCH bị tổn thất nặng trong chiến dịch này, nhưng
tinh thần chung của quân đội không đến nổi nào và tướng Abrams nhận định rằng
sau cuộc tấn công Nam Việt Nam vẫn có khả năng sống còn. Tuy nhiên nhận xét của
CIA tại vùng 3 khá bi quan. Don Gregg,
phụ trách cơ sở CIA vùng 3 cho biết quân đội VNCH không lấp kịp khoảng trống
khi quân đội Hoa Kỳ rút đi. Gregg cho rằng tình trạng này do chính sách của
Thiệu không muốn thấy thêm tổn thất (sau tổn thất trong chiến dịch Lam Sơn)
trong năm bầu cử.
Đầu tháng 7, 1971 Hoàng Đức Nhã tùy viên báo chí của Thiệu
yêu cầu Shackley vận động mở một văn phòng để thông tin về cuộc bầu cử tổng
thống tại Nam Việt Nam ở Washington, nhưng không thành công. Ngày 24/7, ngày
26/7 và ngày 4/8 tổng thống Thiệu, tướng Minh và Phó tổng thống Kỳ lần lượt nộp
đơn ra tranh cử. Tối cao Pháp viện, cơ quan xét đơn tranh cử đã bác đơn của Kỳ
vì các chữ ký giới thiệu (theo luật bầu cử do quốc hội thân Thiệu nhắm gạt Kỳ
đã thông qua) không có giá trị. Sau khi đơn Kỳ bị bác, Minh dọa sẽ rút đơn. Lo
ngại Thiệu độc diễn, Bunker gặp Minh yêu cầu ở lại và có tin Bunker hứa chi 3
triệu mỹ kim cho Minh làm chi phí tranh cử (CIA nói tin này không đúng), nhưng
không có kết quả. Ngày 19/8 Minh rút đơn. Ngày 20 Tối cao Pháp viện chấp nhận
một số chữ ký giới thiệu Kỳ và hợp thức hóa đơn tranh của của Kỳ. Nhưng ngày
23/8 Kỳ lại rút ra.
Kỳ rút đơn nhưng vẫn chuẩn bị vào lại
nếu có điều kiện tranh cử thuận lợi. Kỳ lén gởi phụ tá thân tín Đặng Đức Khôi
qua Phnom Penh, từ đó Khôi đi Hoa Kỳ. Tại Washington Khôi móc nối các nhân vật
CIA quen biết ngỏ ý muốn cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger và phụ tá tại
Bộ Ngoại giao William Sullivan để yêu cầu Hoa Kỳ hứa bảo đảm một cuộc tranh cử
sòng phẳng giữa Thiệu và Kỳ. Hoa Kỳ không đáp ứng lời yêu cầu của Kỳ, và cuộc
tranh cử độc diễn trở thành một thực tế.
Trước viễn ảnh này ngày 7/9 Shackley
yêu cầu Thiệu cho phép cử tri bỏ phiếu bầu Thiệu hay bác Thiệu để ghi nhận tỉ
số đối lập với Thiệu và đề nghị Thiệu tuyên bố trước được bao nhiêu phần trăm
bầu cho mình Thiệu mới xem mình được sự ủy nhiệm của dân. Thiệu bác cả hai đề
nghị.
Ngày 3/10 Thiệu đắc cử với 91.5% phiếu
bầu, tính ra khoảng 90% cử tri có ghi danh. Ngày 8/10 cộng sản trả tự do cho
trung sĩ John Sexton và qua Sexton gởi thư yêu cầu CIA nối lại đường giây trao
đổi tù nhân. CIA và Việt Nam đáp lễ thả một trung úy quân đội cộng sản và chỉ
dẫn cách liên lạc. Ngày 27/10 một đại diện của Trần Bạch Đằng liên lạc với tòa
đại sứ Hoa Kỳ hứa thả ông Douglas Ramsey, một nhân viên của tòa đại sứ để đổi
hai tù nhân cao cấp cộng sản. Được thông báo tổng thống Thiệu đồng ý trên
nguyên tắc nhưng yêu cầu chờ sau khi ông tuyên thệ nhậm chức. Hoa Kỳ đề nghị
một thể thức trao đổi khác nhưng không đạt được sự đồng thuận của cộng sản, CIA
và tổng thống Thiệu. Việc trao đổi tù nhân chìm xuồng.
Sau khi Thiệu tuyên thệ nhậm chức, Sài
gòn bắt đầu nghĩ đến hoạt động của cộng
sản nhân dịp Tết sắp đến, nhất là thời gian này rơi vào thời gian tổng thống
Nixon thăm viếng Bắc Kinh. Một bận tâm khác là Hoa Kỳ được Khiêm báo cáo Thiệu
sắp thành lập đảng Dân Chủ theo mô thức đảng Cần Lao của ông Nhu, tổ chức nửa
kín nửa hở và đảng viên được tuyển mộ trong khối sĩ quan và công chức với mục
đích dùng đảng Dân Chủ để kiểm soát quân đội và bộ máy hành chánh. Các đảng
viên đảng Dân Chủ thuộc toàn quyền xử dụng và sai phái của Thiệu.
Tháng 1/72 Thomas Polgar được Langley
cử đến thay Shackley. Polgar gốc Hungary, gia nhập CIA từ năm 1947. Richard
Helms nói với Polgar nhiệm vụ mới của CIA tại Sài gòn là thiết lập quan hệ tốt
với tòa đại sứ, với MACV, với giới truyền thông và với các phái đoàn quốc hội,
ý rằng chiến tranh sắp kết thúc và quan hệ với chính phủ Sài gòn không còn là
công tác chính.
Các cuộc tấn công năm trước qua Cam
bốt và Lào làm giảm tiềm năng chiến tranh của Bắc Việt và cho quân đội VNCH một
thời gian xả hơi. Đến Sài gòn Polgar lạc quan nói với Nguyễn Khắc Bình, giám
đốc cảnh sát quốc gia rằng “chúng ta sẽ thắng không bằng sức mạnh quân sự mà
bằng tình báo và cảnh sát.” Mặt quan hệ với phủ tổng thống, Polgar được Khiêm
tường trình cho biết tính tình Thiệu và cách làm việc với Thiệu. Khiêm nhấn
mạnh với Polgar tính đa nghi của Thiệu.
Mấy tháng đầu năm 1972, quân đội Hoa
Kỳ tại Việt Nam chỉ còn 180.000, và mọi việc trôi qua lặng lẽ. Không có cuộc
tấn công nào đáng kể của cộng sản trong dịp Tết và dịp Nixon thăm viếng Bắc
Kinh.
Ngày 30/3/72 quân đội chính quy Bắc
Việt ồ ạt đánh qua khu phi quân sự, vùng Kontum, Pleiku và Lộc Ninh phía Bắc
Sài gòn. CIA chỉ tiên đoán sẽ có cuộc tấn công vào cao nguyên, nhưng không tiên
đoán cộng sản sẽ đánh qua biên giới phân chia Nam Bắc. Qua một tuần lễ quan sát
chiến cuộc, Polgar nhận ra rằng chiến tranh chưa chấm dứt và tương lai của miền
Nam Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào sự viện trở của Hoa Kỳ chừng nào Bắc Việt
còn được Nga sô và Trung quốc viện trợ. Polgar tin tưởng quân đội VNCH sẽ đứng
vững trước cuộc tấn công này dù bị tổn thất nặng.
Trong khi cuộc tấn công đang diễn tiến
tại vùng giới tuyến, trên cao nguyên và Vùng 3 chiến thuật, CIA được báo cáo
viên Tư lệnh Vùng 3 đã để cho cộng sản thu mua lương thực, thuốc men và quân
dụng tại địa phương để tiếp tế cho quân đội Bắc Việt. CIA yêu cầu tòa đại sứ
can thiệp để chận đứng sự việc này, nhưng Polgar không ghi nhận được một đáp
ứng nào tích cực. Ngoài vụ “Vùng 3” Polgar còn nhức đầu về việc tướng Nguyễn
Khắc Bình, giám đốc Đặc ủy Trung ương Tình báo kiêm Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc
gia than phiền bộ tư lệnh cảnh sát có quá nhiều sĩ quan thời Pháp để lại và
tổng thống Thiệu không chấp thuận biệt phái sĩ quan giỏi bên quân đội sang tăng
cường.
Cũng như trận Mậu Thân, các giới chức
Hoa Kỳ nhận định về trận tấn công Xuân 1972 khác nhau. Khi cộng sản còn đang
bao vây An Lộc, đại sứ Bunker và tướng Abrams vẫn lạc quan cho rằng sau cuộc
tấn công này Hà Nội đuối sức vì chẳng còn gì nữa. Trong khi Polgar cho rằng nếu
Liên bang Nga Xô viết và Trung quốc còn viện trợ và Hà Nội còn dùng được đất
Lào và Cambốt thì cộng sản vẫn còn khả năng đánh. Phần Việt Nam, Polgar nhận
xét khả năng chịu trận của quân đội VNCH vẫn còn cao và có thể cao hơn nửa
triệu quân Mỹ mấy năm trước nếu vẫn được không lực Hoa Kỳ yểm trợ. Abrams đánh
giá quân đội Việt Nam thấp hơn và cho rằng các tướng lãnh quanh ông Thiệu không
đánh giá đúng mức các sĩ quan cấp tá đang cầm quân và riêng Thiệu có nhiều
quyết định sai vì không biết nghe các báo cáo của các sĩ quan ngoài chiến
trường.
Tuy nhiên quan điểm của Polgar thay
đổi theo tin tức ông thu thập được.Sau hai tháng đánh giá Polgar gởi Bunker một
báo cáo phê bình rằng đa số các tướng chỉ huy chiến trường thiếu khả năng và được
bổ nhiệm do trung thành với Thiệu.
Tướng Tư lệnh Vùng 2 Ngô Dzu chẳng
hạn. Dzu không chuẩn bị gì để đón cuộc tấn công của cộng sản dù được tình báo
cho biết chính xác ngày cộng sản có thể sẽ tấn công. Và khi cộng sản tấn công
Ngô Dzu hoảng sợ bỏ bộ tư lệnh tại Pleiku về đóng tại bộ tư lệnh nhẹ ở Nha
Trang giao toàn quyền chỉ huy tại chỗ cho cố vấn John Paul Van .
Bản báo cáo bi quan đến nổi Bunker và
Abrams không muốn gởi cho Thiệu, mặc dù khi tiếp xúc trực tiếp Abrams đã nói
thẳng những điều tương tự như vậy với Thiệu. MACV có thông lệ ít khi phê bình
quân đội VNCH trong các báo cáo chính thức.
Thiệu định thay tướng Ngô Dzu bằng
tướng Phan Trọng Chinh, một tướng nổi tiếng bất tài khác. Trước tình hình này
đại sứ Bunker buộc lòng gởi tổng thống Thiệu một danh sách tướng lãnh khác để
Thiệu chọn, trong đó không có Chinh. Tổng thống Thiệu chọn tướng Nguyễn Văn
Toàn. Toàn là một tướng cầm quân giỏi, khổ nổi Toàn vốn là tư lệnh Sư đoàn 2 bị
cách chức vì tham nhũng và đang nằm chờ tòa án truy tố về tội quan hệ bất chính
với trẻ vị thành niên.
Qua tháng 6, tình hình chiến trường
khả quan hơn nhờ không quân Hoa Kỳ không kích hậu cần làm giảm khả năng chiến
đấu của bộ đội cộng sản. Toàn miền Nam không có cuộc nổi dậy nào kể cả những
vùng quân đội cộng sản vừa chiếm được. Thiệu tin tưởng chừng nào Hoa Kỳ còn
viện trợ ông còn chiến đấu được.
Cuộc trao đổi giữa William Colby (bây
giờ là giám đốc CIA) và Polgar vào tháng 9/72 cho thấy đến lúc đó Hoa Kỳ vẫn
chưa có một mục tiêu chính trị chính xác tại Việt Nam. Colby yêu cầu Polgar do
có nhiều quan hệ đặc biệt với giới chức lãnh đạo Nam Việt Nam nên giúp Thiệu
thành hình các cơ cấu và định chế chính trị lâu dài để chuẩn bị cho Nam Việt
Nam đấu tranh chính trị với cộng sản sau khi hòa đàm tại Paris kết thúc. Polgar
trái lại nghĩ rằng Hoa Kỳ đã tiêu tốn hằng tỉ mỹ kim vẫn chưa giúp Việt Nam đặt
được một căn bản dân chủ kiểu Tây phương, vậy cách tốt nhất là Hoa Kỳ thành
thật yểm trợ ông Thiệu về vật chất và
tinh thần để ông tự định liệu lấy miễn là con đường của ông không làm thiệt hại
quyền lợi của Hoa Kỳ. Polgar nói chính sách này có thể dẫn đến một chính phủ
độc tài thiếu dân chủ nhưng có an ninh và có thể được dân ủng hộ. Polgar kết
luận con đường dân chủ hóa Nam Việt Nam Hoa Kỳ đang theo đuổi có thể không giúp
cho Nam Việt Nam tồn tại. Colby đồng ý với Polgar rằng khi chiến tranh thì
không thể có dân chủ, nhưng độc tài cũng không có nghĩa là một chính quyền
không đàng hoàng và không lo cho dân.
Cuộc tranh luận giữa Colby và Polgar
cho thấy 18 năm sau khi Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam, Hoa Kỳ vẫn còn lúng túng
về chính sách.
Mỹ áp lực tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Hiệp định Paris ký tháng 1/1973. Từ
tháng 8/72 đến tháng 6/1973 công tác chính của CIA là thuyết phục, nói đúng hơn
là áp lựcThiệu, theo đường hướng của Hoa Kỳ về nội dung bản văn Hiệp định Paris
cũng như cung cách thi hành hiệp định. CIA vận dụng nhân sự đã bố trí quanh
Thiệu để làm yếu sự phản đối của Thiệu về một điểm chính yếu trong bản Hiệp
định là để cho quân đội cộng sản Bắc việt ở lại miền Nam sau khi ngưng bắn.
Ngày 17/8/1972 lần đầu tiên Kissinger
đến Sài gòn để đích thân thuyết phục Thiệu. Polgar và Kissinger đều gốc Âu châu
(Kissinger gốc Đức) và từng quen biết nhau từ năm 1958 và việc này giúp công
tác của hai người bớt tạo nên căng thẳng trong quan hệ cá nhân. Một câu chuyện
để ghi nhận sự căng thẳng: Tối ngày 17/8 Polgar được khẩn mời đến tòa đại sứ.
Polgar thấy Kissinger mặc pyjama.
Kissinger than phiền sự cứng rắn của tổng thống Thiệu và “chỉ thị” Polgar dùng
các đường giây quanh Thiệu để áp lực Thiệu thay đổi lập trường. Polgar nói ông
không thể áp lực lộ liễu như vậy. Kissinger bảo Polgar đó là “lệnh”, rồi lạnh
lùng quay sang đại sứ Bunker hỏi ông xử lý thế nào nếu nhân viên không tuân
lệnh cấp trên. Bunker cũng lạnh lùng trả lời ông đồng ý với Polgar!
Dù vậy Kissinger và Polgar vẫn giữ
được hòa khí. Kissinger biết rằng nhờ
các đường giây Polgar gài trong giới đầu não tại Hà Nội mà ông có lợi thế khi
trao đổi với đại điện của Hà Nội tại cuộc hội đàm. (ghi chú của TBN: muốn biết
rõ hơn điều này xin đọc cuốn “Decent Interval” của Frank Snepp, nhân viên phân
tích chiến lược của CIA tại Sài gòn).
Sau khi Kissinger trở về Hoa Kỳ tổng
thống Thiệu không tiếp ai trong gần một tháng. Ngày 15/9 Khiêm báo cáo với
Polgar rằng Thiệu lo ngại rằng vì nhu cầu tranh cử có thể Nixon sẽ nhượng bộ
những đòi hỏi phi lý của Hà Nội.
Để nắm vững chính quyền chuẩn bị đấu
tranh chính trị với cộng sản, tổng thống Thiệu hủy bỏ lệ bầu các hội đồng hành
chánh cấp xã và bổ nhiệm trực tiếp tỉnh thị trưởng và quận trưởng. Polgar yêu
cầu Thiệu hoãn ban hành các biện pháp đó cho đến sau cuộc bầu cử tổng thống tại
Hoa Kỳ, nhưng tổng thống Thiệu bác bỏ nói rằng tình hình đòi hỏi sự cứng rắn.
Bunker nói với Polgar Thiệu cứng rắn vậy vì Kissinger đã nói thẳng với Thiệu
rằng nếu Hà Nội đề nghị ngưng bắn và trả tù binh Mỹ thì Hoa Kỳ sẽ chấp thuận,
dù tình hình quân sự tại Nam Việt Nam như thế nào.
Ngày 12/10 Kissinger và Lê Đức Thọ kết
thúc bản dự thảo Hiệp định Paris, và ngày 18/10 Kissinger đi Sài gòn áp lực
Thiệu. Chuyến đi này Kissinger gặp Thiệu và các phụ tá 6 lần. Lần gặp thứ hai
Thiệu yêu cầu Kissinger cho xem bản văn Việt ngữ của Hiệp định dự thảo,
Kissinger nói không có. Và Thiệu cho Kissinger xem bản Hiệp định tóm tắt tình
báo Việt Nam lấy được. Sau khi CIA dịch ngược lại ra Anh ngữ cho Kissinger xem
Kissinger bình luận: “Thật là một sự thật khó nuốt”. Việc này làm cho Kissinger
nhức đầu thêm đối với Thiệu vì chẳng những Thiệu không chấp nhận điều khoản để
quân đội cộng sản Bắc Việt ở lại miền Nam Thiệu còn không đồng ý nhiều điểm
khác trong bản văn, đặc biệt khoản miêu tả chính quyền sẽ được thiết lập tại
Sài gòn sau khi ký hiệp định.
Tổng thống Thiệu hoãn cuộc gặp gỡ
Kissinger dự trù ngày 21/10. Bunker gọi phàn nàn, Nhã cúp điện thoại. Bunker
giận dữ gọi Thiệu. Kết quả 8:00 sáng ngày 22/10 Thiệu gặp Kissinger. Thiệu bình
tỉnh hơn thường lệ và dùng tiếng Anh để trao đổi. Nhưng vào buổi họp chiều
Thiệu không dằn được cơn giận. Thiệu khóc và nói ông bác bỏ toàn bộ bản văn.
Kissinger lập luận rằng nội dung Hoa Kỳ thỏa thuận với Hà Nội như vậy là điều
không thể tránh được. Kissinger nói với Thiệu Nixon đang gặp khó khăn với quốc
hội vì ông đã dùng ngân khoản nhiều tỉ mỹ kim quốc hội chưa chuẩn chi để bỏ bom
Bắc Việt và chuyển quân dụng dự trữ cho Việt Nam.
Sáng ngày 23/10 Bunker tháp tùng
Kissinger đến chào Thiệu trở về Hoa Kỳ. Kissinger không nói nhiều chỉ nói khéo
rằng nếu Thiệu không ký thì không tránh được tai họa. Kissinger không nói tai
họa cho ai hay cho quốc gia nào. Kissinger nói với Bunker ông đã ngán Thiệu và
không bao giờ ông trở lại Sài gòn nữa.
Sự giận dữ của tổng thống Thiệu đối
với Kissinger là do Thiệu đã quá tin vào Nixon là một vị tổng thống “thẳng
tính, lương thiện và không bao giờ có thể phản bội chính phủ và nhân dân Nam
Việt Nam” và cho Kissinger phản bội nhân dân Mỹ vì tham vọng và thành
kiến. Polgar đồng ý phần nào với Thiệu
cho rằng thái độ của Kissinger đối với Thiệu quá kênh kiệu và kẻ cả.
Chỉ còn chưa đầy một tháng nhân dân Mỹ
sẽ đi bầu tổng thống. Thiệu tính rằng cách tốt nhất là giúp Nixon tái đắc cử.
Thiệu ra lệnh cho giới chức chính phủ và quốc
hội không được công khai chỉ trích chính phủ Mỹ.
Ngày 26/10 Hà Nội tuyên bố đã đạt được
thỏa thuận với Hoa Kỳ, và tiết lộ rằng quân đội Bắc Việt có quyền ở lại miền
Nam và Mỹ hứa cung cấp 7 tỉ mỹ kim tái thiết Bắc Việt. Đồng thời tại Washington
Kissinger họp báo cho biết “hòa bình đã ở trong tầm tay” (peace is at hand).
Nhưng tại Sài gòn CIA báo cáo Thiệu
vẫn chống bản văn của Hiệp định. Kissinger phong tỏa tin này tại Washington.
Nhờ phong tỏa tin tức và lời tuyên bố “peace at hand” tổng thống Nixon đã đánh
bại ứng cử viên đảng Dân chủ George McGovern và đắc cử tổng thống Hoa Kỳ nhiệm
kỳ hai ngày 7/11/1972.
Bước qua tháng 12 Thiệu vẫn chống điều
khoản liên quan đến quân đội Bắc Việt và Bunker dọa Thiệu rằng Hoa Kỳ có thể
cắt viện trợ nếu Hiệp định Paris cứ nhì nhằng vì thái độ của Thiệu. Mặt khác
Polgar áp lực Thiệu qua Nhã. Tin riêng của CIA tại Sài gòn tiết lộ rằng theo
Thiệu Hoa Kỳ cần cách chức Kissinger mới giải quyết được bế tắc. Nhưng Polgar
không báo cáo tin này nghĩ nó làm tổn thương uy tín của Nixon. Thiệu còn tính
dọa từ chức, ngầm ý cho Hoa Kỳ thấy nếu Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay
ông Hương còn cứng rắn hơn. Và kịch bản là Thiệu sẽ trở lại chức vụ tổng thống
do yêu cầu của quân đội và nhân dân.
Với áp lực dồn dập kịch bản từ chức
không được thực hiện. Và ngày 10/12
Thiệu cho biết có thể đồng ý với bản văn để Hiệp định có hiệu lực nhưng không
ký vì ký vào bản văn chứng tỏ Thiệu chỉ là hình nộm của Hoa Kỳ.
Sau một buổi họp gồm các thân tín thu
hẹp tại dinh Độc Lập tướng hồi hưu Phạm Văn Đổng, bộ trưởng bộ Cựu Chiến binh
báo cáo với CIA Thiệu nói rằng “ký hiệp định chấp nhận quân đội Bắc Việt ở lại
Nam Việt Nam giống như uống một chén thuốc độc, nhưng nếu không ký thì Nam Việt
Nam cũng từ từ sụp đổ vì Hoa Kỳ cắt viện trợ.” Theo Đổng, tổng thống Thiệu quả
quyết bản Hiệp định bảo đảm sự toàn thắng của cộng sản, và do đó ông sẽ không
ký.
Hà Nội nghi sự dùng dằng là mưu kế của
Hoa Kỳ và Thiệu nên tại Paris Lê Đức Thọ tuyên bố Hà Nội cũng muốn thay đổi vài
điều khoản đã thỏa thuận và ông ta phải về Hà Nội tham khảo. Nhân dịp này Hoàng
Đức Nhã nói với Rodney Landreth (một nhân viên CIA tại Sài gòn) rằng đúng ra
Hoa Kỳ nên áp lực Hà Nội hơn là áp lực Nam Việt Nam. Nhã nói Nhã biết Nam Việt
Nam sẽ lâm vào thế bí nếu Hoa Kỳ cắt viện trợ, nhưng ông không hiểu tại sao
“Hoa Kỳ đã hy sinh bao nhiêu tiền của và sinh mạng trong bao nhiêu năm bỗng
nhiên từ bỏ mục tiêu nguyên thủy của cuộc chiến đấu. Lính Mỹ đến Việt Nam để
chết chứ đâu phải đi nghỉ phép!” Nhã nói thêm rằng nếu Hoa Kỳ bỏ rơi Nam Việt
Nam uy tín Hoa Kỳ đối với thế giới tự do sẽ bị tổn thất nặng nề.
Ngày 19/12 Alexander Haig, phụ tá
Kissinger đến Sài gòn. Thiệu tiếp Haig một cách thoải mái hơn (với Kissinger).
Haig chuyển cho Thiệu một thư tay của Nixon và Thiệu cũng đưa cho Haig một thư
cầm về cho Nixon mà không nói gì nhiều với Haig. Bunker nói với Haig ông tin
rằng nội dung lá thư của Thiệu sẽ không làm tổng thống Nixon hài lòng. Và Haig
nói thẳng với Thiệu rằng ký Hiệp định Paris là một nhu cầu chính trị của Hoa Kỳ
nên ngôn từ trong đó không phải là chuyện quan trọng. Hơn nữa dù là ngôn từ gì
cũng không ai tin người cộng sản. Bunker nghĩ Thiệu hiểu tình hình, nhưng tâm
lý bực bội Kissinger làm ông không thay đổi thái độ một cách dễ dàng được.
Ngày 21/12 Khiêm nói với Polgar ông
hiểu sự thúc bách của dư luận và quốc hội Mỹ (muốn chấm dứt chiến tranh và thấy
tù binh Mỹ trở về) và tốt hơn hết Thiệu nên ký Hiệp định để bảo đảm nguồn viện
trợ. Khiêm nói Thiệu có thể được thuyết phục bằng cung cách mềm dẽo hơn là bằng
áp lực và đe dọa như Kissinger và Haig đã làm. Hơn nữa Thiệu chỉ còn chống
khoản liên quan đến quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam, và Khiêm nghĩ tổng thống
Nixon có đủ uy tín để giải thích với quốc hội Hoa Kỳ về sự nhượng bộ phi lý đó.
Tuy nhiên Khiêm hứa sẽ thuyết phục Thiệu và yêu cầu Bunker tiếp tục thúc bách
Thiệu.
Sau khi Thọ trở về Hà Nội, Nixon ra
lênh oanh tạc vùng Hà Nội, Hải phòng bằng B52 trong suốt một tuần lễ vào dịp lễ
Giáng sinh. Hà Nội hoảng hốt ra lệnh Thọ trở lại Paris tiếp tục đàm phán. Hoa
Kỳ ngưng dội bom.
Ngày 12/1/1973 sau khi Hoa Kỳ ngưng
dội bom, tình báo CIA tại Hà Nội cho biết Hà Nội sẵn sàng ký Hiệp định vào ngày
20/1/1973.
Ngày 16/1 Haig đến Sài gòn với một thư
tay khác của Nixon gởi cho tổng thống Thiệu rằng nếu vẫn không ký ông sẽ công
khai tố cáo trước dư luận thế giới Thiệu ngăn cản hòa bình. Thiệu vẫn hoãn binh
và cho biết sẽ trả lời Nixon vào ngày hôm sau.
Hôm sau, 15 phút sau khi máy bay Haig
rời Tân Sơn Nhất, Thiệu triệu tập Hội đồng An Ninh thu hẹp, đọc tối hậu thư của
Nixon cho Hội đồng nghe. Sau đó Hội đồng bàn về cung cách thi hành hiệp định.
Việc ký kết đến đây xem như đương nhiên. CIA báo cáo rằng “trong thâm tâm Thiệu
biết trước sau cũng phải ký theo ý Hoa Kỳ, nhưng ông đã làm những gì cần thiết
có lợi cho sự tồn tại của Nam Việt Nam.”
Sáng ngày 20/1 Thiệu triệu tập Hội
đồng An ninh quốc gia thông báo quyết định ký. Phó tổng thống Trần Văn Hương
khóc nói rằng Nam Việt Nam đang ở trên một chiếc cầu gãy, chạy hướng nào cũng
không tránh được tai họa, và ký Hiệp định thì tai họa nhỏ hơn. Sau khi Hương
dứt lời Thiệu nói Thiệu đồng ý với sự miêu tả của Hương.
Ngày 27/1 vào lúc tại Paris Hiệp định
được ký kết, tổng thống Thiệu nói với Nôi các rằng bản Hiệp định Paris được bảo
đảm của Hoa Kỳ, Liên bang Xô viết và Trung quốc và rằng thái độ cứng rắn của
ông đã đưa đến vụ bỏ bom trong dịp lễ Giáng sinh và sẽ làm cho kế hoạch chiến
tranh của Hà Nội bị chậm lại ít nhất 3 tháng. Haig nói với Bunker rằng vụ bỏ
bom Hà Nội và Hải phòng đã là yếu tố cần thiết để Thiệu ký Hiệp định Paris.
Đầu tháng 4/73 Nixon mời Thiệu công du Hoa Kỳ và tiếp Thiệu
tại San Clemente nơi làm việc và nghỉ ngơi của Nixon ở California. Bunker tháp
tùng phái đoàn với Thiệu và Bunker mời Polgar cùng đi. Qua cuộc thăm viếng Nixon
hứa viện trợ quân sự 1 tỉ mỹ kim (trên căn bản một đổi một) và 1 tỉ viện trợ
kinh tế cho Nam Việt Nam. Thiệu rất hài lòng.
Tại Việt Nam sự thi hành Hiệp định
không êm ả. Tổng thống Thiệu không chấp nhận Nghị định thư ấn định bản đồ da
beo phân định ranh giới kiểm soát hai bên do Hà Nội và Hoa Kỳ đồng ý với nhau
dự tính ký và phổ biến ngày 7/6/73 và Thiệu đề nghị thay đổi một số điểm nói về
thể thức bầu cử. Hoa Kỳ lại áp lực Thiệu và cuối cùng Thiệu đồng ý. Theo đánh
giá của CIA sau 6 tháng thi hành hiệp định Thiệu củng cố vị trí vững chắc trên
diện địa nhưng cộng sản chuẩn bị dùng vũ trang yểm trợ cuộc đấu tranh chính trị
bằng cách ồ ạt chuyển vũ khí vào miền Nam.
Thời gian từ 4/73 đến 11/74 là một
thời gian kèn cựa báo trước một trận bão.
Tháng 6/73 bầu cử bán phần Thượng viện
tại Sài gòn gồm 3 liên danh và 30 Thượng nghị sĩ. Nhân dịp này Hoa Kỳ muốn tạo
một sinh hoạt đa đảng hài hòa, nhưng Polgar cho biết không phải đơn giản vì chính quyền và chính khách
Nam Việt Nam không còn tin Hoa Kỳ nữa.
Ngày 18/6 sau khi gặp các nhân vật
thân cận như Trần Quốc Bửu, tướng hồi hưu Huỳnh Văn Cao, Phạm Văn Đổng và
Nguyễn Bá Cẩn chủ tịch Hạ nghị viện, Polgar thuyết phục Trần Quốc Bửu làm thụ
ủy liên danh Xã hội Dân chủ đối lập, nhưng Bửu từ chối. Những người dự họp
không ai tin một liên danh đối lập có thể đắc cử, một phần vì không có căn bản
trong quần chúng, một phần cho rằng trước sau chính quyền cũng gian lận phiếu.
Cuối tháng 6/73 Bunker về Mỹ. Đầu
tháng 7 tòa đại sứ nghe phong thanh Thiệu và Khiêm bất hòa. Ông Whitehouse, đại
sứ tạm thời (trong khi chờ Graham Martin đến thay) yêu cầu Polgar hỏi Khiêm.
Khiêm xác nhận có và nguyên nhân là Khiêm rút ra khỏi thụ ủy liên danh thân
chính do Thiệu chủ trương. Thêm nữa,
Khiêm không đồng ý với các cố vấn thân cận của Thiệu như Hoàng Đức Nhã
và Nguyễn Văn Ngân. Hai nhân vật này cố vấn Thiệu thiết lập một chế độ tập
trung quyền hành như chế độ của cựu tổng thống Ngô Đình Diệm. Khiêm nói Việt
Nam có thể chưa sẵn sàng cho một chế độ dân chủ đa đảng, nhưng dù độc đảng cũng
cần có tiếng nói đối lập.
Tháng 7/73 đại sứ Martin đến Sài gòn.
Martin từng là đại sứ tại Ý và Thái Lan và có một người con trai tử trận tại
Việt Nam. Theo Polgar, Martin từ tốn, hiền, và là một “gentleman” kiểu mẫu,
nhưng cung cách làm việc cũng cứng rắn không kém Bunker.
Cũng như Bunker, Martin dùng sự tiếp
cận của CIA đối với các tướng lãnh Việt Nam để kín đáo vận dụng chính sách của
Hoa Kỳ. Qua trung gian của Khiêm, Quang và thỉnh thoảng Bình, và với các nhân
vật trong quốc hội tòa đại sứ dò biết được suy nghĩ và tính toán của Thiệu. Các
nhân vật này sẵn sàng khuyến cáo Thiệu theo chính sách Hoa Kỳ, dù đó là chính
sách có thực chất hay có tính hào nhoáng.
Tháng 8 năm 1973 Nixon từ chức vì dính
vào vụ Watergate. Lúc này Hoa Kỳ đã hoàn tất áp lực Thiệu ký Hiệp định Paris
(1/73) và Nghị định thư (6/73) thi hành Hiệp định. Cả hai văn kiện đều bất lợi
cho VNCH./.
Kỳ
tới:
Chương
7: Nỗ lực duy trì hiện trạng
Chương
8: Thời điểm sinh tử
Trần Bình Nam
Sept. 11, 2009
Trần Bình
|
http://www.tranbinhnam.com |