Hải cảng Cam Ranh và Liên bang Nga
Trần
Bình Nam
Cảng Cam Ranh của Việt Nam nằm ở cực
nam tỉnh Khánh Hòa cách phía nam thành phố du lịch Nha trang 50km là một hải
cảng lớn từng liên hệ đến các biến chuyển quốc tế.
Sau khi người Pháp thiết lập xong nền
đô hộ tại Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ 19, người Pháp biết giá trị của cảng Cam
Ranh. Nhưng một mặt không có nhu cầu, một mặt không đủ khả năng tài chánh nên
người Pháp không có chương trình khai thác. Vào những thập niên cuối của thế kỷ
19 (1880-1900) chỉ có Anh quốc có khả năng đe dọa quyền lợi của Pháp trong vùng
Thái Bình Dương, nhưng Anh đang bận xâu xé nước Tàu ở phương Bắc và mặc nhiên
chấp nhận chủ quyền của Pháp ở phía Nam. Ngoài Anh, còn Nhật Bản, nhưng Nhật Bản
cũng đang bận tranh chấp với Nga và làm thịt con mồi Trung quốc lớn hơn.
Trong suốt thời gian trên dưới 130 năm
từ khi Pháp đặt chân đến Việt Nam cho đến hôm nay, Cam Ranh chỉ đựợc dùng khi
có nhu cầu quốc tế, và khi hết nhu cầu Cam Ranh lại trở về sự yên tĩnh thiên
nhiên cố hữu của nó.
Nhưng không biết Cam
Ranh còn được yên tĩnh bao lâu nữa!
Năm 1895 Nhật Bản chiếm Đài Loan, và
ảnh hưởng của Nhật Bản vào đầu thế kỷ 20 càng ngày càng lên ở Đông Á, người
Pháp lo ngại nên năm 1930 cho chiến hạm Malicieuse
ra chiếm quần đảo Spatleys (Trường Sa). Tuy nhiên người Pháp không xây cất hay
tuyên bố gì để xác định chủ quyền. Ngay cả việc chính quyền Pháp ở Đông Dương
có ý xây cất một căn cứ tàu ngầm tại Cam Ranh để bảo vệ Trường Sa Paris cũng
không chấp thuận cho là không cần thiết (Chương 2, The South China Sea dispute, page 28, by Geoffrey Till, trong cuốn
“Security and International Politics in
the South China Sea” do Sam Bateman & Ralf Emmers chủ biên)
Mùa hè năm 1940 Đức quốc xã chiếm nước
Pháp. Chính quyền Vichy thân Đức được thành lập, và chính quyền Pháp tại Đông
Dương theo chính phủ Vichy. Tháng 12/1941 Nhật tuyên chiến với Hoa Kỳ, tấn công
Trân Châu Cảng làm tê liệt hạm đội Mỹ tại Thái Bình Đương và hải quân Nhật hoàn
toàn làm chủ Thái Bình Dương trong đó có biển Đông. Chính quyền Pháp tại Đông
Dương thuộc phe Trục (Đức, Ý, Nhật) được Nhật Bản cho tiếp tục cai trị Đông
Dương. Nhật chiếm những cứ điểm của Pháp tại Trường Sa (như đảo Itu Aba) và xây
cất một căn cứ tàu ngầm tại đảo Itu Aba nhường cho Pháp quản lý đảo Woody trong
quần đảo Hoàng Sa cho đến ngày 9/3/1945 khi Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Đương.
Trong cuộc tranh hùng với hải quân Hoa Kỳ
trong trận Thế giới đại chiến II (1941-1945) Nhật không dùng căn cứ Cam Ranh
một cách thường xuyên. Nhật chỉ xử dụng Cam Ranh một lần năm 1942 làm nơi tập
trung hải đội chuẩn bị xâm lăng Malaysia. .
Sau trận Midway tháng 6/1942 hải quân
Nhật thua đậm, Hải quân Hoa Kỳ trở lại làm chủ Biển Đông. Tháng 1/1945 đô đốc
William Halsey Jr. đưa một hạm đội vào tảo thanh biển Đông để yểm trợ cho cuộc
đổ bộ của tướng McArthur lên Vịnh Lingayan. Trong suốt 11 ngày hành quân đô đốc
Halsey đánh đắm hằng chục chiếm hạm nhỏ của Pháp và tiêu diệt đơn vị đặc nhiệm
39 của hải quân Nhật và phá hủy căn cứ Cam Ranh không cho Nhật xử dụng.
Cam Ranh từng có duyên nợ với Nga,
Nhật, Mỹ và khi có những tranh chấp quốc tế đe dọa Việt Nam, Cam Ranh đều trở
thành một cứ điểm quan trọng .
Tháng 4/1905 một hạm đội hùng hậu của Nga Hoàng Nicolas đệ II gồm 28
chiến hạm do đô đốc Zinovy Rozhestvensky chỉ huy trên đường từ biển Baltic theo
đường vòng qua mủi Hảo vọng của lục địa Phi châu được Pháp cho cắm neo nghỉ
ngơi tại vịnh Cam Ranh trước khi tiếp tục hành trình lên phía Bắc để tranh hùng
với hạm đội Nhật Bản (TBN: Nga và Nhật tuyên chiến năm 1904 và đang giành nhau
kiểm soát Triều Tiên. Ai kiểm soát eo biển Tsushima - eo biển Đối Mã- giữa
Triều Tiên và Nhật Bản sẽ có thế thượng phong chiếm Triều Tiên).
Năm 1964 Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu
nghiên cứu địa hình cảng Cam Ranh chuẩn bị mở rộng cuộc chiến bảo vệ miền nam
Việt Nam ra miền Bắc. Và đầu năm 1965 sau khi Hải quân Hoa Kỳ và hải quân Việt
Nam Cộng Hòa phát hiện và đánh đắm một chiếc tàu trọng tải 100 tấn của Bắc Việt
chở vũ khí tiếp tế cho bộ đội cộng sản ở miền Nam tại Vũng Rô (trong vùng Đèo
Cả thuộc tỉnh Phú Yên) Hoa Kỳ quyết định xây dựng Cam Ranh thành một căn cứ Hải
Không quân.
Từ năm 1965 đến năm 1973 Cam Ranh là
một cứ điểm quan trọng của Hoa Kỳ. Quân đội và tiếp liệu cho toàn cuộc chiến
đều ra vào qua cảng Cam Ranh. Sau Hiệp Định Paris 1973 Hoa Kỳ rút các lực lượng ra khỏi
Cam Ranh, và giao lại cho quân đội VNCH. Việt Nam không có phương tiện duy trì
Cam Ranh như một căn cứ và chỉ xử dụng phi trường Cam Ranh một cách giới hạn.
Vào
đầu tháng 4/1975 cảng Cam Ranh còn được xử dụng trong 3 ngày (từ 1 đến 3/4/75)
để đổ người tị nạn từ Đà Nẵng vào, sau đó chuyển tiếp đi Phú quốc . Ngày
3/4/1975 quân đội VNCH rút khỏi Cam Ranh.
Sau
khi chiếm miền Nam, Hải quân Bắc Việt một phần
không có nhu cầu, một phần không có khả năng nên căn cứ Cam Ranh bỏ trống.
Năm 1979 khi Trung quốc đánh qua biên
giới phía bắc Việt Nam, Nga – theo yêu cầu của Hà Nội – đưa một hạm đội đến
tuần hành vùng biển giữa đảo Hải Nam và bờ biển Bắc Việt để phòng ngừa Trung
quốc đổ bộ lên Thanh Hóa đánh từ phía nam lên. Hạm đội Nga dùng nhóm đảo
Macclesfield Bank (nằm phía Đông quần đảo Hòang Sa khoảng 200 km, lúc đó đang
do Trung quốc kiểm soát) làm nơi thả neo nghỉ ngơi và tiếp tế ((Chương 2, The South China Sea dispute, page 32, by
Geoffrey Till, trong cuốn “Security and
International Politics in the South China Sea” do Sam Bateman & Ralf
Emmers chủ biên).
Thấy bất tiện Hà Nội sắp xếp cho hạm
đội Nga dùng căn cứ Đà Nẵng và ký một khế ước mật cho Nga thuê căn cứ Cam Ranh 25 năm (TBN:
điều khoản của khế ước là hai bên sẽ thương thuyết lại sau 14 năm). Sau khi ký
khế ước Nga biến Cam Ranh thành một căn cứ hải quân lớn ngoài lãnh thổ Nga. Nga cho xây thêm tại Cam Ranh 5 cầu tàu, 2 bãi đưa tàu lên cạn
để bảo trì và sửa chữa, xây thêm cơ sở cho tàu ngầm ẩn núp, kho chứa dầu, nhà
máy điện, doanh trại và kéo dài phi đạo. Mục đích chính yếu của căn cứ là ngăn ngừa một cuộc xâm
lăng Việt Nam của Trung quốc.
Sự
hiện diện của Nga tại Cam Ranh chỉ được công bố cho thế giới biết vào năm 1988
khi bộ trưởng ngọai giao Nga Eduard Shevardnadze cho biết Nga có ý muốn rút
khỏi Cam Ranh (vì quá tốn kém) sau năm 1993. Năm 1990 Hải quân Nga giảm dần sự
hiện diện tại Cam Ranh.
Năm
1991 Liên bang Xô viết sụp đổ, Việt Nam và Trung quốc làm lành với nhau và Việt
Nam không còn cần sự hiện diện của Nga tại Cam Ranh. Năm 1993 khi thương thuyết
lại khế ước, Nga chỉ muốn duy trì tại Cam Ranh một trạm điện tử để nghe ngóng
tin tức. Việt Nam ra giá 200 triệu mỹ kim một năm. Nga chê mắc và quyết định
rút khỏi Cam Ranh. Ngày 2/5/2002 toàn bộ nhân sự Nga rút khỏi Cam Ranh.
Từ đó đến nay Cam Ranh bỏ trống.
Ai
cũng đóan khi Nga ra đi, Trung quốc ve vãn Hà Nội để thuê cảng Cam Ranh, nhưng
Hà Nội vẫn còn đủ tỉnh táo để không “bán”
Cam Ranh cho Trung quốc.
Những
năm gần đây Hà Nội cho chuyển phi trường dân sự Nha Trang vào Cam Ranh dùng cho
các chuyến bay nội địa. Và gần đây hơn có những tin tức và biến chuyển đáng
quan tâm, và vai trò của căn cứ Cam Ranh trên bàn cờ Biển Đông lại được dư luận
thế giới quan tâm.
Ngày
10/12 (theo bản tin Việt ngữ đài BBC) chính quyền Việt Nam cho khánh thành đài
tưởng niệm “quân nhân Liên xô” từng hy sinh tại Việt Nam tại khu cảng hàng
không Cam Ranh.
Đài tưởng niệm cao 21 mét, nặng trên
800 tấn do Liên doanh Dầu khí Vietsopetro tài trợ với số vốn gần 1
triệu mỹ kim.Trên đài tưởng niệm có khắc tên 44 bộ đội Liên Xô - Nga và
176 quân nhân Việt Nam đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ tại căn cứ Cam Ranh và
khu vực miền Trung Việt Nam. (TBN: dư luận tự hỏi không biết các quân nhân Nga
chết tại Việt Nam trong hoàn cảnh nào?)
Cũng nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày
thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Liên Xô, Việt Nam tặng thưởng một số
nhân viên công ty Vietsovpetro vì đã tham gia xây dựng các giàn khoan dầu ở
quần đảo Trường Sa, vinh danh họ đã góp phần khẳng định chủ quyền và bảo vệ
biên giới Việt Nam trên biển Đông.
Hai ngày sau (12/12/09) hãng hàng không dân sự Nga Transero Airliens bắt đầu những chuyến
bay nối liền Cam Ranh và thành phố Vladivostock của Nga mỗi tuần 2 chuyến, và
hai chính phủ Việt-Nga đang bàn tính mở những chuyến bay trực tiếp Cam Ranh và
Mạc Tư Khoa (bản tin BBC ngày 8/12/09).
Ngày
14/12/09 thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đến Mạc
Tư Khoa (trên đường đi dự hội nghị thời
tiết tại Đan Mạch) hội đàm với thủ tướng Putin thảo luận về “tăng cường hợp tác toàn diện và đối tác
chiến lược" trong đó có việc tập đoàn dầu khí Gazprom của Nga sẽ đầu
tư khoảng 319 triệu đôla để phát triển năng lượng tại Việt Nam và việc Nga
sẽ ký kết hợp đồng bán cho Việt Nam 12 chiến đấu cơ Sukhoi và 6 tàu ngầm loại
Kilo.
Các
hoạt động dồn dập liên quan đến cảng Cam Ranh không khỏi tạo sự tò mò cho giới
quan sát quốc tế, và dù vô tình cũng có thể thấy được đây là một lời nhắn cho
Trung quốc biểt những trăn trở của Việt Nam trước áp lực càng ngày càng cao của
Trung quốc.
Liên
bang Nga trở lại xử dụng căn cứ Cam Ranh để giải tỏa áp lực của Trung quốc đối
với Việt Nam như Nga đã làm năm 1979 không? Không ai nghĩ điều này sẽ xẩy ra vì
mối quan hệ tay ba Nga-Trung quốc-Việt Nam hiện nay khác với quan hệ giữa 3
nước vào năm 1979. Hiện nay quan hệ giữa Việt Nam và Trung quốc tuy căng thảng
bên trong do tranh chấp ngấm ngầm về hải đảo nhưng bên ngoài vẫn là hai nước
đồng minh nên Việt Nam chưa thấy cần Nga để trấn áp Trung quốc. Hơn nữa nếu cần
Hoa Kỳ có thể triển khai lực lượng hải quân của mình để khống chế không cho
Trung quốc dùng sức mạnh chiếm hữu biển Đông chẹt đường biển huyết mạch từ Ấn
Độ Dương lên qua eo biển Mã Lai Á.
Những
chuyển vận xích lại gần nhau giữa Việt Nam và Nga nên được hiểu là Việt Nam dù
dưới áp lực nào của Trung quốc cũng sẽ không nhượng Cam Ranh cho Trung quốc.
Và trong hướng chiến lược này Việt Nam được sự ủng hộ của
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga, khối các nước ASEAN và cộng đồng thế giới .
Bàn
về sự xử dụng dân sự của cảng Cam Ranh, tiến sĩ Lê Đăng Doanh, Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý
kinh tế Trung ương, trong một buổi nói chuyện khá thẳng thắn và cởi mở với (có lẽ) Bộ chính trị
đảng cộng sản Việt Nam ngày 2/11/2004 đã phát họa kế hoạch mở cảng Cam Ranh
thật quy mô có khả năng nhận hàng hóa từ Âu châu, Ấn Độ sau khi đã có đường cao
tốc (freeway) băng qua nam Á châu để chở hàng lên Nhật Bản, Trung quốc, Nga thì
cảng Cam Ranh sẽ giúp thu ngắn thời gian chuyển vận nếu phải chở suốt bằng
đường biển qua eo biển Malacca.
Cục
diện trước mắt như thế cho thấy vùng biển Đông có cơ trở thành một vùng biển
quốc tế với sự trọng tài của hải quân Hoa Kỳ (TBN: cuộc thăm viếng của khu trục
hạm Lassen do Trung tá Lê Bá Hùng một người Mỹ gốc Việt chỉ huy viếng thăm Đà
Nẵng tháng 11/2009 vừa qua là một thông điệp đầy tự tin về vai trò trọng tài
này) và cảng Cam Ranh nhìn ra Biển Đông sẽ là trung tâm sinh hoạt kinh tế có
lợi cho toàn vùng.
Tạm
thời khi chưa đủ mạnh để đối đầu với hải quân Hoa Kỳ Trung quốc sẽ phải chấp
nhận cục diện này. Nhưng trong vòng 10 hay 20 năm nữa khi Trung quốc cảm thấy
đủ mạnh chưa chắc Trung quốc chịu nhận vai trò trọng tài của Hoa Kỳ.
Nhưng đến lúc đó lại là một câu chuyện “chiến tranh hay
hòa bình” khác.
Trần Bình Nam
Dec 23,
2009