SỰ CÁO CHUNG 
CỦA HỘI ĐỒNG
BẢO AN LIÊN HIỆP QUỐC
Trần Bình 
Lời nói đầu: Hôm Thứ Năm 22 tháng 5 (2003) Hội đồng Bảo an
đã thông qua một nghị quyết giải tỏa lệnh cấm vận Iraq, cho phép Hoa Kỳ và Anh
Quốc phân phối dầu hỏa của Iraq và dùng tiền bán dầu để tái thiết. Đó là nhượng
bộ của Pháp, Đức và Liên bang Nga. Phần Mỹ và Anh bảo đảm chính quyền Iraq
không quịt nợ của Liên bang Nga và Pháp, mặt khác thuận để cho các chuyên viên
thanh tra vũ khí giết người tập thể của Liên hiệp quốc trở lại Iraq để chứng
nhận tình trạng Iraq có hay không có vũ khí giết người tập thể, sau cùng đồng ý
để Hội đồng Bảo an có ý kiến sau cùng về thời gian Mỹ và Anh quản lý tái thiết
và xây dựng chính quyền mới tại Iraq. Nghị quyết này tạo cảm tưởng rằng Hội
đồng Bảo an vẫn còn quan trọng và Liên hiệp quốc là
một định chế quốc tế vững chắc. Sự thật, nghị quyết được thông qua trước thực
tế quân đội Hoa kỳ và Anh quốc đã lật đổ Saddam Hussein, và Liên bang Nga, Đức
và Pháp cần cứu vãn quyền lợi của mình. Pháp và Đức hiểu rằng đối đầu với Hoa
Kỳ, như đã tìm cách ngăn cản Hoa Kỳ tấn công 
            
Sự thất bại của Liên hiệp
quốc được giáo sư Michael Glennon phân tích trong bài “Why the Security
Council Failed” đăng trong tạp chí Foreign Affairs số tháng 5/tháng
6, 2003. Tôi ghi lại các điểm chính sau đây. Bài viết của giáo sư  Glennon nếu dịch
nguyên văn ít nhất cũng dài 30 trang chữ cỡ 12. Tôi tóm tắt
trong 8 trang nên không thể phản ảnh hết ý của giáo sư Glennon muốn nói.
Độc giả có thể đọc toàn bài nơi www.foreignaffairs.org
. Giáo sư Michael J. Glennon là giáo sư về luật quốc tế tại trường luật
và ngoại giao của đại học Tuffs, và là tác giả của cuốn sách nhan đề: “Limits
of Laws, Prerogatives of Power: Interventionism after Kosovo.” (Giới hạn của
Luật, Ưu tiên của Sức mạnh: Quyền can thiệp sau Kosovo). 
Trần Bình 
***
Năm 1920 khi Hội Quốc Liên (
            
Đầu năm 2003, đoàn xe bỗng trục trặc.
Nguyên tắc dùng vũ lực giải quyết các tranh chấp trên thế giới qua trọng tài
của quốc tế theo Hiến chương Liên hiệp quốc không được
áp dụng.
            
Tuy nhiên căn bệnh của Liên hiệp quốc âm thầm từ lâu. Bối cảnh địa
lý chính trị  thay
đổi làm cho nguyên tắc xử dụng vũ lực ghi trong hiến chương Liên hiệp quốc (và
điều hành bởi Hội đồng Bảo an) không phải lúc nào cũng áp dụng được. Trục trặc xẩy ra từ tháng 9 năm 2002.
            
Ngày 
Như đã nói ở trên, vụ 
            
Vậy “chính sách dùng sức mạnh” trên thực tế nó như thế nào!
Từ khi Liên bang xô viết sụp đổ, Hoa Kỳ trở thành siêu cường duy nhất, một số
quốc gia cảm thấy quyền lợi mình có thể bị xâm phạm trong cấu trúc quyền lực
mới, đã xích lại với nhau tìm đối trọng. Năm 1998 bộ trưởng ngoại giao Pháp,
ông Hubert Védrine tuyên bố: “Chúng tôi không chấp nhận một thế giới đơn
cực, và đó là lý do tại sao chúng tôi vận động cho một thế giới đa cực.” Jacques Chirac là người đã vận động không mệt mỏi cho mục đích này.
Theo Pierre Lellouche, cố vấn ngoại giao của tổng thống Jacques Chirac đầu thập
niên 1990 thì ông Chirac chủ trương một thế giới đa cực trong đó Âu châu là đối
trọng của Hoa Kỳ về chính trị lẫn quân sự.
            
Những năm gần đây, Liên bang Nga và Trung quốc cũng bày tỏ một
khuynh hướng như Pháp. Tháng 7/2001 Liên bang Nga và Trung quốc ký một hiệp ước
xác định quan điểm của hai nước là một thế giới đa cực. Nước Đức, muộn màng hơn
vì lý do nội bộ, cũng đã bày tỏ một quan điểm tương tự, nói trắng ra là chống
sự độc quyền của Mỹ. Năm 2000 bộ trưởng ngoại giao Đức ông Joschka Fischer nói:
“căn bản chính sách của Âu châu từ năm 1945 vẫn là không chấp nhận tham vọng
độc quyền của một nước.” Và mới đây thôi, cựu thủ tướng
Helmut Schmidt cũng nói Đức và Pháp, “sẽ không để cho quốc gia mình lọt vào
quỹ đạo của đồng minh Hoa Kỳ.”
            
Trong khi đó Hoa Kỳ không úp mở về ưu thế đơn cực. Tháng 9 năm
2002 Hoa Kỳ công bố một tài liệu nói về ưu thế quân sự của mình và xác định chủ
thuyết đánh phủ đầu, một chủ thuyết ngược lại với điều 51 của Hiến
chương Liên hiệp quốc. Điều 51 nói vũ lực chỉ được dùng để tự
vệ khi bị tấn công.
            
Hoa Kỳ còn khác biệt các quốc
gia khác về văn hóa. Văn hóa phân chia các nước Tây và Bắc phương
với các nước ở Đông và 
Một điều đáng lưu ý là giữa
Hoa Kỳ và Âu châu cũng có sự khác biệt quan điểm - và càng ngày càng nổi bật –
về luật trong quan hệ quốc tế.  Ai có thể làm luật? Một quốc gia hay một cơ cấu siêu
quốc gia? Hoa Kỳ, ít nhất trong thế cân bằng quyền lực hiện nay, không công
nhận một cơ cấu siêu quốc gia làm ra luật (mà Hoa Kỳ phải theo).
Cách thức Hiến chương Liên
hiệp quốc qui định quyền dùng sức mạnh có lẽ là điểm làm cho Liên hiệp quốc trở
thành lỗi thời. Hiến chương Liên hiệp quốc không nói rõ trong trường hợp nào sự
xử dụng vũ lực không có phép của Hội đồng Bảo an Liên
hiệp quốc là không chấp nhận được và biện pháp trừng phạt trong trường hợp đó
ra sao. Vì vậy từ năm 1945 đến nay đã có nhiều quốc gia dùng
vũ lực vi phạm Hiến chương mà Liên hiệp quốc không có (hay không thể) phản ứng.
Điều này làm cho Hiến chương Liên hiệp quốc trở thành một
luật chết. 
            
Ngày 2 tháng 3 năm 2003, vài ngày sau khi Pháp, Liên bang nga và
Trung quốc cho biết sẽ phủ quyết việc Hoa Kỳ tấn công Iraq, Hoa Kỳ tuyên bố sẽ
không xem phủ quyết của Hội đồng Bảo an có giá trị. Tuyên bố
này không làm cho ai hoảng hốt. Thế giới đã từng thấy
nhiều quốc gia (nhất là các quốc gia mạnh) hành động trái Hiến chương. Ai cũng biết Hiến chương Liên hiệp quốc đã chết nhưng không ai có ý
đem chôn. Cứ để đó khi cần thì dùng, vừa có lợi vừa
chứng tỏ mình tôn trọng luật lệ quốc tế.
Tại sao tổng thống Bush phải
đưa vấn đề 
Thực tế là khi giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền lực,
văn hóa và an ninh quốc gia nước nào cũng đặt quyền
lợi và sự an toàn quốc gia lên trên các nguyên tắc khác. Năm 2001, ông Védrine
bộ trưởng ngoại giao Pháp nói: “Chúng tôi sẽ bảo vệ quyền lợi sinh tử của
chúng tôi như chúng tôi từng làm trong quá khứ. Và chúng tôi sẵn sàng nói
“không” trước những việc ảnh hưởng đến quyền lợi của chúng tôi.” Thủ tướng
Đức ông Gerhard Schroder ngày 
            
Tuy nhiên, khi xây dựng quyền
lực, quốc gia nào cũng lợi dụng các định chế quốc tế phù hợp với quyền lợi của
mình. Đối
với Liên bang Nga, Pháp và Trung quốc, một trong những định chế đó là Hội đồng
Bảo an và phiếu phủ quyết của họ. Vì
vậy không có gì ngạc nhiên khi Pháp, Nga và Trung quốc dọa mang quyền phủ quyết
ra để duy trì một thế giới đa cực. Hoa Kỳ cũng vậy, dùng Hội đồng Bảo an
nếu có lợi cho mình trong ý định thực hiện một thế giới đơn cực, nếu không thì
lơ đi xem Hội đồng Bảo an như không có. Tổng thống Bush không úp mở về vấn đề
này khi – trong bài diễn văn về tình trạng liên bang đầu năm 2003 - ông nói: “Con
đường chúng ta đi không lệ thuộc vào ý kiến của các quốc gia khác.” 
Như vậy trên thực tế từ khi được khai sinh đến nay Hội đồng Bảo an chỉ là một cơ chế làm vì. Hiện tại chính sách đơn cực của
Hoa Kỳ làm cho Hội đồng Bảo an có vẻ lố bịch, nhưng
thật ra Hội đồng Bảo an đã trải qua nhiều lần lố bịch trong thế giới nhị cực
thời gian chiến tranh lạnh. Nhị cực buộc Liên bang Xô viết vô hiệu hóa Hội đồng
Bảo an; đơn cực buộc Hoa Kỳ xem Hội đồng Bảo an như không hiện hữu. Trong khi
đó Hội đồng Bảo an không có sự chọn lựa nào khác.
Thuận cho phép Hoa Kỳ đánh 
            
Nhiều người cho rằng Iraq đã răm rắp tuân hành nghị quyết 1441 của
Hội đồng Bảo an cho thấy Liên hiệp quốc đã thành công và luật lệ quốc tế được
tôn trọng. Thực tế không phải vậy. Nếu không có áp lực
của quân đội Mỹ đóng ở Trung đông, Saddam Hussein đã không xem nghị quyết 1441
ra gì và phái đoàn thanh tra Liên hiệp quốc đã không đặt chân được đến Iraq.
Trên nguyên tắc việc Hoa Kỳ chuyển quân đến Trung đông de dọa lật đổ chế độ 
            
Nghị quyết 1441 là một trong
những nghị quyết kỳ lạ trong lịch sử Liên hiệp quốc. Qua nghị quyết 1441 Hoa Kỳ
nói đã có căn bản hợp pháp tấn công 
Làm thế nào để đưa thế giới
vào khuôn khổ của một thế giới đa cực? Như đã thấy, một vài nước Âu châu, trong đó có
Pháp nghĩ rằng có thể dùng Hội đồng Bảo an như một siêu quốc gia để kềm chế
khuynh hướng đơn cực của Hoa Kỳ. Phiếu phủ quyết của Pháp là một vũ khí. Kết
quả (như những gì đã diễn ra trong mấy tháng đầu năm 2003) cho thấy sự  lúng túng của Pháp
cũng như sự bất lực của Hội đồng Bảo an.
            
Để vớt vác trật tự của thế giới trước hành động của Hoa Kỳ, một số
luật gia lập luận rằng, các quốc gia trên thế giới nên hành động vì quyền lợi chung chứ không nên hành động theo quyền lợi riêng của mình.
Nói cách khác căn bản của dân chủ là cân bằng và kiểm soát lẫn nhau
(checks and balances) cần được áp dụng trong cộng đồng quốc tế.
            
Không ai không công nhận giá trị của sự
kiểm soát lẫn nhau trong sinh hoạt của một quốc gia để tránh độc tài. Nhưng nếu đem áp dụng trong cộng đồng
quốc tế thì đôi khi Hoa Kỳ bị buộc phải hành động trái với quyền lợi của mình
và có lợi cho quốc gia khác. Sẽ không thực tế nếu chúng ta chờ đợi Hoa
Kỳ bằng lòng để cho Liên bang Nga hay Trung quốc kiểm soát chính sách quốc tế
của mình. Ngược lại, không ai chờ đợi Trung quốc hay Liên bang Nga sẽ để cho
Hoa Kỳ kiểm soát  nếu hai nước này có vị
trí thượng phong như Hoa Kỳ đang có? Tổng thống Jacques Chirac muốn kiểm soát
Hoa Kỳ, muốn vươn mình lên ngang với Hoa Kỳ, trong khi đó ông ta xem những quốc
gia yếu kém khác muốn vươn lên ngang hàng với Pháp là những đứa trẻ “không
được dạy dỗ đàng hoàng”
            
Tình hình thế giới hiện nay
không thể có đa cực. Nhưng nếu chỉ có một thế lực cầm cân nẩy mực cho các vấn đề trên
thế giới thì cái gì kiểm soát thế lực đó không làm lớn làm láo? Không ai
có câu trả lời cho câu hỏi nhức đầu này, nhưng có thể thế giới yên tâm hơn nếu
thế lực duy nhất đó là Hoa Kỳ, một quốc gia có truyền thống dân chủ hơn là một
quốc gia chưa bao giờ biết dân chủ là gì. 
            
Khi thảo bản Hiến pháp Hoa kỳ
ông James Madison đã nêu ra một điểm mà những nhà chủ trương cộng đồng ít lưu
ý. Ông Madison và các đồng tác giả (viết bản Hiến pháp Hoa Kỳ) đã đặt câu hỏi:
“kẻ mạnh có lợi gì” khi buộc họ tuân hành pháp luật như mọi người. Trong văn
kiện liên bang (Federalist Papers) ông 
Mùa Đông năm 2003, tòa nhà Liên hiệp quốc
uy nghi, huy hoàng tráng lệ bỗng nhiên lung lay chỉ chờ sụp đổ. Nguyên nhân vì cái nền xây trên cát.
Cái nền xây dựng trên căn bản các quốc gia mạnh hay yếu đều sẽ tôn trọng luật
pháp là một điều không phù hợp với thực tế. Mạnh yếu khác
nhau, văn hóa khác nhau, và quan niệm xử dụng sức mạnh khác nhau là những yếu
tố làm cho tòa nhà sụp đổ.
            
Mục đích của luật là thay đổi cách hành động của con người,
và luật quốc tế nhắm ảnh hưởng đến cách hành xử của một quốc gia. Tuy nhiên luật quốc tế được hình thành nhắm vào sự giải quyết các
vấn đề người ta thấy được khi viết luật, chứ không hoàn toàn dựa vào lý thuyết.
Trong cuộc sống một số vấn đề mới xuất hiện và quốc
gia nào cũng vận dụng trong khuôn khổ luật pháp quốc tế để vươn lên giành quyền
lực. Khi một quốc gia thấy cái khuôn khổ của luật pháp
quốc tế ngăn cản sự vươn tới quyền lực của họ họ sẽ xé bỏ đi nếu họ có sức
mạnh. Mới ngày hôm trước là những luật lệ cần phải
tuân hành, hôm sau nó có thể chỉ còn là những dòng chữ vô hồn trên giấy.
            
Hiện tượng này xẩy ra với bất cứ luật
quốc tế nào, được viết ra trong một bối cảnh địa lý chính trị nhất định. Cái gọi là Hội đồng Bảo an sống vất va vất vưởng qua suốt
cuộc chiến tranh lạnh, trở nên có sinh lực một lúc trong thập niên 1990 như một
ngọn đèn bùng lên trước khi tắt rồi tắt ngấm với Kosovo và Iraq.
            
Luật lệ quốc tế trong tương lai nếu muốn đương đầu với thử
thách cần phản ảnh thực tế của sức mạnh, văn hóa và nhu cầu an
ninh. Việc Liên hiệp quốc không còn là một cơ sở trọng tài
quốc tế có giá trị nữa không phải là một vấn đề luật học mà là một vấn đề địa
lý chính trị.
            
Bài học thứ hai về sự thất bại của Liên hiệp quốc là luật
đặt ra phải được đặt trên căn bản của câu hỏi các quốc gia thường hành xử thế
nào chứ không phải các quốc gia phải hành xử thế nào. Quan
niệm luân lý không tồn tại trong sinh hoạt quốc tế.
Vậy phải làm gì để duy trì trật tự và hòa
bình thế giới? Chắc chắn không phải là
một vấn đề đại lý thuyết và lấy đạo lý làm căn bản. Nhân loại
không có khả năng đồng thuận về quan niệm “thiên thần” hay “ma quỷ”. Thiên thần và ma quỷ có thể đổi chỗ với nhau chăng? Không ai biết được và các nhà chính trị cũng không có câu trả lời
dứt khoát. Vì sao? Vì trên
thực tế quan niệm các quốc gia bình đẳng với nhau chỉ là một thứ lý thuyết
suông dù được biện minh rằng đó là luật tự nhiên. Liên hiệp quốc
không thể tồn tại do quan niệm quốc gia bình đẳng này, mà hệ luận quan trọng
nhất là nếu anh có thì tôi cũng có quyền có vũ khí giết người tập thể.
Vũ khí giết người tập thể của một nước nhỏ đe dọa sự an
toàn của các nước lớn. Mặt khác nếu quốc gia bình đẳng thì
làm thế nào ngăn chận sự diệt chủng (như NATO đã can thiệp vào nội bộ Nam Tư)
và bảo vệ nhân quyền cho mỗi công dân trên thế giới. 
Điều lệ Hội đồng Bảo an cho phép bất cứ một quốc gia thành
viên nào của Liên hiệp quốc theo thứ tự luân phiên
cũng có thể trở thành một thành viên (dù yếu và không đáng kể như 
Hội đồng Bảo an còn sống bao
lâu?
Câu hỏi này tùy thuộc vào diễn biến tương
lai. Nếu Hoa Kỳ tìm thấy vũ khí giết
người tập thể tại 
            
Ngược lại, nếu Hoa Kỳ không tìm thấy vũ khí giết người tập
thể và tình hình Iraq không thể ổn định, các nước chống chiến tranh sẽ trách
Hoa Kỳ không tuân hành luật lệ quốc tế mà ra cớ sự. Tuy nhiên không vì thế mà
Hội đồng Bảo an có thể lấy lại uy tín. Nghị quyết Hội
đồng Bảo an thông qua hôm 
            
Một điều chúng ta có thể đoán là nếu Hoa
Kỳ bị lúng túng sau cuộc tấn công 
            
Những ai chủ trương trọng pháp đều nghĩ
rằng thế giới phải đi đến một trật tự trong khuôn khổ luật lệ quốc tế nào đó để
duy trì hòa bình và ổn định. Khuôn khổ này Hoa Kỳ có thể tìm thấy qua vai trò ưu tiên của mình
khi giúp giải quyết các vấn nạn trên thế giới. Như một qui luật bất
biến, Hoa Kỳ cũng thấy trước ưu thế của mình không thể kéo dài vô tận với thời
gian, vì vậy khuôn khổ luật lệ quốc tế mới dưới ảnh hưởng của Hoa Kỳ cũng sẽ
được quan niệm thế nào để một mặt bảo vệ Hoa Kỳ, mặt khác kéo dài ưu tiên của
Hoa Kỳ đối với các vấn đề trên thế giới.
            
Trước mắt là phải tìm ra một cơ cấu để
thay thế cho cơ chế quốc tế hiện tại.
Những nguyên nhân đưa đến sự quá thời của Hội đồng Bảo an
hiện nay vẫn còn là nguyên nhân có tính cách qui luật đối với bất cứ một cơ cấu
tương lai nào. Quốc gia nào cũng tìm cách tạo quyền lực và bảo vệ an ninh bất chấp sự thiệt thòi (về quyền lực và an ninh) của
các nước khác. Các nước trên thế giới sẽ còn bất đồng ý kiến
với nhau về vấn đề khi nào thì phải dùng vũ lực. Đó là một thực
tế dù chúng ta muốn hay không muốn. Và một hệ thống luật lệ
quốc tế mới nào cũng không thể bỏ qua thực tế đó.
| Trần Bình  | http://www.vnet.org/tbn |