Chính Sách của Hoa Kỳ Đối Với Việt Nam
                        Trần Bình Nam
Đa số người Việt Nam và những người Mỹ quan tâm từng tự hỏi: Hoa Kỳ có chính
sách gì đối với Việt Nam? Hai nước từng đánh nhau, bây giờ là
bạn có quan hệ ngoại giao. Sau khi thua trận năm 1975
Hoa Kỳ phong tỏa kinh tế Việt Nam.
Và sau một quá trình kéo dài hai chục năm đi từng bước, từ việc đi tìm người Mỹ
mất tích trong chiến tranh, qua các cuộc thăm viếng của các tổ chức bất vụ lợi,
các tổ chức nhân đạo, rồi chuyển qua quan hệ chính phủ sau khi khối Liên xô sụp
đổ. Sau cùng Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh phong tỏa kinh tế (đài BBC
gọi là lệnh cấm vận), tiến tới việc thiết lập bang giao với Việt Nam năm 1995. Nếu Việt Nam và Hoa Kỳ không có nhu cầu về quan hệ
chiến lược, đã không có những chuyển động ngoại giao đó. Việt Nam vì vị trí và khả năng đặc biệt trong vùng Đông
Nam Á. Hoa Kỳ vì quyền lợi ở miền tây Thái Bình Dương và nhu cầu kềm chế Trung
quốc, một sức mạnh đang lên. 
Nguyên tắc tiếp cận chiến lược với Việt
Nam đã được giới quân sự và một số chính
khách Mỹ phát họa từ những năm đầu thập niên 1990, khi vấn đề bang giao đang
còn là một đề tài nóng hổi.  Đầu năm 1994, Đô Dốc
Charles Larson, Tư lệnh lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương đến viếng Việt Nam.
Cuối năm 1994 Đô Đốc Richard Macke, người thay thế Đô Đốc
Larson lại đến Việt Nam.
Cả hai nói đến để hỏi thêm tin tức về quân nhân Mỹ mất tích trong cuộc chiến,
nhưng thật sự để bàn về tương lai của căn cứ Cam Ranh vì Liên Bang Nga không
còn có nhu cầu xử dụng. Một năm sau (tháng 5/95) khi thăm viếng Việt Nam Thượng
nghị sĩ John McCain nói không úp mở: "Vì mối tranh chấp truyền kiếp với
Trung quốc Việt Nam muốn thấy sự hiện diện của chúng ta trong vùng"  Sự hiện diện của Thượng nghị sĩ John McCain
tại Việt Nam là một thông điệp làm lành của Hoa Kỳ. Ông là phi công Hải quân bị
bắn rơi trên không phận Hà nội năm 1968 và bị cầm tù cho đến khi được trao trả
sau Hiệp Định Paris năm 1973. Trong khi đó phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao Winston
Lord nói Việt Nam tuy chưa trực tiếp yêu cầu Hoa Kỳ duy trì sự hiện diện  quân sự  tại Á châu nhưng Việt Nam tin rằng "lực
lượng Hoa Kỳ sẽ giúp quân bình cán cân thế lực trong vùng, và nếu Hoa Kỳ rút đi
sẽ có một khoảng trống quyền lực" (Terms of Engagement, Far Eastern
Economic Review, June 8, 1995 by Nigel Holloway và Adam Schwarz). Hai tháng sau, Bộ trưởng Ngoại giao Warren Christopher đến Hà nội
ký thỏa ước thiết lập bang giao giữa hai nước. Trong bài nói chuyện với
sinh viên Việt Nam tại Viện Bang giao Quốc tế tại Hà nội Ngoại trưởng Christopher  (bên cạnh
các điều cần thiết khác của một bài diễn văn ngoại giao như kinh tế thị trường,
dân chủ, nhân quyền ...) đã nhắc Việt Nam việc Trung quốc muốn kiểm soát con
đường biển huyết mạch qua Nam Hải. Ông nói: "Có nhiều việc hai chính phủ
có thể làm với nhau, chẳng hạn qua Diễn Đàn Vùng Hiệp Hội Đông Nam Á, và cùng
làm với các nước khác để bảo đảm ổn định trong vùng. Một vấn đề then chốt là
tranh chấp trong vùng biển Nam Trung quốc, một thủy đạo quan trọng..." Rồi
ngoại trưởng Christopher ví von kết luận: "Tại Văn Miếu Hà nội có khắc
dòng chữ  'Trời
đất tiên báo một thời đại đổi mới'. Chúng ta hãy cùng nhau nắm lấy cơ hội này
để làm cho lời tiên tri 
kia trở thành sự thật." Không có gì rõ ràng hơn trong sự ướm
lời của ông Christopher về một liên minh kinh tế và quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt
Nam. 
Nhưng sau khi thiết lập bang giao, quan hệ chiến lược
giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ nhích đi từng bước chậm chạp, ngoại trừ một số hoạt
động của các nhà kinh doanh Mỹ và các trao đổi thăm viếng qua lại của các phái
đoàn cấp thấp thuộc các bộ. Vì nhiều lý do. 
Việt Nam biết Trung quốc là một đe dọa (trận đánh biên giới đầu
năm 1979) nhưng cũng còn là một quốc gia bạn cùng chủ nghĩa, trong khi  tâm lý e dè đối
với Hoa Kỳ vẫn còn đè nặng. Nếu cấp lãnh đạo Việt Nam thống nhất ý kiến về nhu cầu an
ninh, họ chưa thống nhất về một hành động chiến lược lâu dài. Và chính quyền Hà nội thiếu một khuôn mặt nổi bật có thể lấy quyết
định và thuyết phục tập thể chấp nhận. Lê Duẫn còn có một tư thế quyết
định nào đó, nhưng sau Lê Duẫn, đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có thể lấy các quyết
định quan trọng qua đồng thuận. 
Về phía Hoa Kỳ, nếu sau khi rút quân ra khỏi Việt Nam nội
bộ bất hòa tìm cách đổ lỗi cho nhau, thì sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ thở
dài thoải mái, thấy vết thương bớt đau nhưng lại không đồng ý về việc - có hay
không nên có - một chính sách toàn 2cầu nói chung và với Việt Nam nói riêng. Nếu các chuyên viên ở bộ ngoại giao Mỹ thấy có nhu cầu xích lại gần
Việt Nam về mặt quân sự thì những người lãnh
đạo chính trị không thấy một nhu cầu cấp bách như vậy. Họ nhìn thế giới một cách lạc quan,
cho rằng cơn thủy triều mậu dịch hóa toàn cầu đang lên sẽ mang đến phúc lợi cho
thế giới. Hoa Kỳ nghĩ, là đệ nhất siêu cường trong
trật tự mới, họ không cần vội vàng, bất cứ biến cố nào tới Hoa Kỳ cũng có khả
năng giải quyết. Hơn nữa nếu Trung quốc là mối lo và
là yếu tố chính để Hoa Kỳ ve vãn Việt Nam, thì mối lo đó vẫn còn xa. 
Hoạt động ngoại giao quan trọng nhất giữa Hoa Kỳ và Việt
Nam sau khi thiết lập bang giao là cuộc thương thuyết âm thầm thỏa ước thương
mãi song phương để cho hàng hóa của Việt Nam nhập cảng vào Hoa Kỳ được hưởng thuế
quan thấp giống như đa số các quốc gia có quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ (có khi
được gọi một cách không chính xác là Qui chế Tối huệ quốc - Most Favored Nation
Status). Hoa Kỳ hy vọng qua thỏa ước đó nhẹ nhàng đưa Việt Nam vào quỹ đạo kinh
tế thị trường, hội nhập cộng đồng thế giới, tạo điều kiện dân chủ hóa và canh
tân đất nước, và dựa trên đó xây dựng một chiến lược lâu dài với Việt Nam. Cuối năm 1999 thỏa ước tưởng như đã đạt được. Nhưng Việt Nam
vẫn chưa vượt qua trở ngại tâm lý, vẫn còn sợ đông sợ tây, lãnh đạo chưa thống
nhất ý kiến, trong khi Hoa Kỳ vừa thiếu quyết tâm, vừa thiếu tế nhị ngoại giao
nên thỏa ước bất thành. 
Có tin nói tổng thống Clinton sẽ viếng thăm Việt Nam trước khi mãn nhiệm kỳ nếu  thỏa ước bình thường hóa quan hệ mậu
dịch giữa hai nước được ký kết như dự tính. Lúc này, cuộc tranh cử tổng thống
Hoa Kỳ sắp đi vào giai đoạn sôi nổi không có lý do gì để tổng thống Clinton công du Việt  Nam. Nhưng cao điểm của quan hệ chiến lược
giữa Hoa kỳ và Việt Nam đã được đánh dấu bằng chuyến thăm
viếng của Bộ trưởng quốc phòng William S. Cohen tháng 3 vừa qua. Sự thăm viếng của một vị bộ trưởng
quôc phòng có tầm quan trọng đặc biệt của nó. Trong
thời kỳ chiến tranh, mỗi khi bộ trưởng quốc phòng Nga thăm viếng Hà nội hay bộ
trưởng quốc phòng Mỹ thăm viếng Sài gòn là cuộc chiến thay đổi tính chất và
cường độ. 
Tuy vậy một liên minh chiến lược giữa
Hoa kỳ và Việt Nam lúc này vẫn còn là một chuyện xa vời. Ngăn cách giữa hai nước còn nhiều.
Trước tham vọng của Trung quốc như  đe dọa 
Đài Loan, gây hấn biên giới với Việt Nam, dành giựt vùng biển Nam Hải,
đơn  phương công bố chủ quyền quần đảo
Trường Sa, lăm le chiếm tài sản thiên nhiên và kiểm soát đường biển huyết mạch
của Nhật Bản và Đài Loan,  Hoa Kỳ thấy
cần Việt Nam, nhưng vì thiếu một cái khung của một chính sách toàn cầu nên Hoa
Kỳ không thể hình thành chính sách Việt Nam. 
Đảng 
cộng sản Việt Nam cũng không ở một vị trí dễ dàng hơn. Bị
Trung quốc đe dọa, Việt Nam cần có đồng minh mạnh. Đồng minh ở Đông Nam Á quá yếu.  Đồng minh quan trọng nhất là Hoa Kỳ thì vì
những lý do tình cảm và chính trị Việt Nam chưa 
tiến gần lại được mặc dù những người cầm quyền tại Hà nội biết
rằng chỉ có liên minh với Hoa Kỳ an ninh Việt Nam mới được bảo đảm. 
Trong điều kiện hiện tại Việt Nam không có khả năng chận đứng một cuộc
tấn công quân sự qui mô của Trung quốc ngoài biển cũng như qua biên giới. Và sẽ không có ai đến giúp Việt Nam.
Trong cuộc chiến biên giới tháng 2 năm 1979, Hà nội chận được Trung quốc vì
quân đội Việt Nam còn được trang bị  đầy
đủ, binh sĩ còn kinh nghiệm chiến trường, quân đội Trung quốc thua sút về trang
bị và huấn luyện. Hơn nữa Trung quốc cũng không muốn tiến xa hơn vì sợ Liên
bang Xô viết đánh sau lưng. Lúc ấy giữa Liên bang Xô viết và Việt Nam còn có Hiệp định An ninh hổ
tương. 
Thế cân bằng chiến lược tại Thái bình Dương hiện nay cho
thấy một liên minh quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam là điều thuận lý, không phải
chỉ để phục vụ quyền lợi của Việt Nam và của Hoa Kỳ mà còn là thế bảo đảm ổn
định và hòa bình tại Á châu. 
 Việt
Nam có trở ngại về lãnh đạo. Không có khuôn mặt nào đủ tầm cỡ để
lấy quyết định lớn.  Về phía Hoa
Kỳ tuy hai ứng cử viên Al Gore và George Bush bắt đầu bàn về chính sách ngoại
giao nhưng cả hai đều thiếu kinh nghiệm để có thể lấy những quyết định căn bản
giúp khai thông chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ trên toàn thế giới nói chung
và một chính sách cụ thể đối với Việt Nam nói riêng. 
Thái độ nhì nhằng hiện nay có thể kéo
dài ít nhất một hay nhiều thập niên nữa ngoại trừ có những biến cố xẩy ra đòi
hỏi hành động. Thí dụ Trung quốc vô
cớ gây hấn với Đài Loan, hay Đài Loan tuyên bố độc lập buộc Trung quốc phải ra tay. Hoặc Trung quốc ngang nhiên dùng vũ lực chiếm quần đảo
Trường Sa, buộc Hoa Kỳ nhập cuộc. 
Có nhiều chỉ dẫn cho thấy Trung quốc sẽ
rất kiên nhẫn và họ biết chờ. Họ sẽ lấn chiếm, làm cho cái bóng của Trung quốc tỏa dần xuống Nam
Á nhưng sẽ không hành động khinh xuất. Chờ cho đến lúc đủ lông đủ cánh
về cả hai mặt quân sự và kinh tế  đủ khả năng đương đầu với Hoa Kỳ họ
mới hành động. Người ta có thể bất đồng ý kiến với nhau về
những gì có thể xẩy ra trong tương lai, nhưng ai cũng đồng ý rằng Trung quốc
muốn trở thành siêu cường để sánh vai với Mỹ với bất cứ giá nào. Người
Trung Hoa, sống trong hay ngoài nước, không phân biệt chính kiến, đều xem đó là
thiên mệnh. 
Tổng thống Clinton trong bài diễn văn cuối cùng về tình
trạng liên bang đọc trước lưỡng vịện quốc hội Hoa Kỳ đầu năm 2000 khi bàn về
một chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đã đề cập đến Trung quốc như một lực lượng
có khả năng trở thành địch thủ của Hoa Kỳ, nhưng ông chỉ phát họa một chính
sách ôn hòa trong ý muốn giúp đỡ Trung quốc trở thành một siêu cường dân chủ
hội nhập vào cộng đồng thế giới. 
Bước vào những tháng cuối cùng trước
khi được chính thức đề cử làm ứng cử viên tổng thống, Al Gore và George Bush
bắt đầu tranh cãi về chính sách đối ngoại. Điều này có thể có một ảnh hưởng quan trọng hơn
người ta tưởng trong cuộc bầu cử sắp tới. Al Gore phê bình George W.
Bush có cái nhìn hạn hẹp đối với thế giới và vẫn còn bị ám ảnh bởi chiến tranh
lạnh, Bush chỉ trích lại chính sách của Clinton đã hoàn toàn thất bại tại Liên
bang Nga ("Yippie", The Economist May 6, 2000). 
Đứng trên thế siêu cường độc nhất,
trong thời đại toàn cầu hóa mà sức mạnh kinh tế xem như là điều quan trọng hàng
đầu cái nhìn của Al Gore tưởng như là lối nhìn chân phương và thực tế. Nhưng hình như Al Gore không để  tâm đúng mức đến cuộc bình luận "nhìn
lại" về cuộc chiến Việt Nam sôi nổi trên báo chí và truyền hình Hoa Kỳ
đánh dấu 25 năm ngày Hoa Kỳ rút ra khỏi Việt Nam. Dư luận Hoa Kỳ bắt đù nghi
ngờ chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ trong 25 năm qua, nhất là 8 năm dưới hai
nhiệm kỳ của tổng thống Clinton. Và dường như dư luận Hoa Kỳ bắt đầu thấy rằng
dù là siêu cường quân sự bậc nhất, kinh tế mạnh hàng đầu, Hoa Kỳ cũng cần phải
có một chính sách ngoại giao dựa trên những nguyên tắc vững vàng, chứ không thể
đến đâu hành động đến đó như thái độ ỡm ờ thiếu chỉ hướng trong thập niên qua. Lời phê phán của Al Gore không có lợi cho ông nơi thùng phiếu.
Vì nếu George Bush có lối nhìn cũ, có nghĩa xác định quyền lợi sống chết của
Hoa Kỳ một cách dài hạn và thiết lập một chính sách ngoại giao trên đó thì có
thể Bush làm điều hợp ý với những ai quan tâm. 
Trong bối cảnh này nếu Bush đắc cử, Hoa
Kỳ sẽ mau chóng hình thành một chính sách đối với Việt Nam hơn là Gore. Lẽ dĩ nhiên Việt Nam có phần quyết định trong việc xích
lại gần với Hoa Kỳ. Cho đến nay Việt Nam do dự, một phần vì quan hệ đặc biệt
với Trung quốc, nhưng chính yếu là vì thái độ lừng khừng của Mỹ đối với Trung
quốc. Nếu Hoa Kỳ phát họa một chính sách rõ ràng hơn với Trung quốc trong sách
lược toàn cầu mới, bày tỏ quyết tâm quan hệ với Việt Nam như một đồng minh
chiến lược, Hoa Kỳ có thể thuyết phục 
đảng cộng sản Việt Nam đi những bước bạo dạn hơn trong việc xích lại gần
Mỹ. 
Và dù không ai sắp xếp, việc ông tổng thống đảng Dân chủ
Bill Clinton dự định viếng thăm Việt Nam không thành, để Bộ trưởng  Quốc phòng William Cohen, một người
thuộc đảng Cộng Hòa thăm viếng chính thức Việt Nam kể từ ngày Hoa Kỳ thua trận
tại Việt Nam phải chăng là điều báo trước đảng Cộng Hòa có sứ mệnh thiết lập
quan hệ chiến lược giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Trong quan hệ quân sự giữa Hoa Kỳ
và Việt Nam trong tương lai, tấm ảnh Bộ trưởng Cohen duyệt hàng quân với Bộ
trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà tại Hà nội ngày 14 tháng 3 năm 2000 được in trên
trang nhất của hầu hết các tờ báo lớn trên thế giới là một tấm ảnh có ý nghĩa.
Tấm ảnh chuyển đạt thông điệp: một liên minh quân sự giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là điều tốt đẹp nhất cho
quyền lợi của hai nước. 
Để đạt đến điều tốt đẹp này, người lãnh
đạo tương lai của Hoa Kỳ cần vượt lên trên khoái cảm của một đệ nhất siêu cường
và nhìn thế giới một cách thực tế hơn để mau chóng có một chính sách toàn cầu. Và những người lãnh đạo Việt Nam mau chóng nhận ra rằng
dù Trung quốc là một quốc gia đồng văn đồng chủng, đồng chủ thuyết, quyền lợi
của Trung quốc không bao giờ song hành với quyền lợi của Việt Nam. Trái lại dù văn hóa khác nhau, từng đánh nhau, từng nghi ngờ và
đang còn nghi kị lẫn nhau quyền lợi của Hoa Kỳ có thể đồng quyền lợi với Việt Nam. (June 2000) 
 
  | Trần Bình Nam | http://www.vnet.org/tbn |