Chính Trị và Tự Ái

Trần Bình Nam

Thỏa ước Mậu dịch song phương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam được hai bên thỏa thuận trong tháng 7, 1999 và dự trù chính thức ký kết ngày 13/9/99 tại Auckland, Tân Tây Lan. Phía Hoa Kỳ do chính tổng thống Clinton đại diện, phía Việt Nam là thủ tướng Phan Văn Khải. Hai vị cùng hiện diện tại Tân Tây Lan khi tham dự hội nghị thượng đỉnh của tổ chức Hợp tác Kinh tế Á châu - Thái bình dương (Asia Pacific Economic Cooperation). Nhưng vào ngày 11/9/99, phía Việt Nam thông báo cho Hoa Kỳ biết Việt Nam cần thêm thì giờ để nghiên cứu lại bản thỏa ước.

Mọi người sửng sốt ngạc nhiên. Bản Thỏa ước đã được Hoa Kỳ và Việt Nam ngấm ngầm thương thuyết hơn 3 năm nay, và chỉ tạm ngưng từ giữa năm 1997 sau cuộc khủng hoảng kinh tế Á châu. Cuối năm 1998 khi kinh tế các nước Á châu có dấu hiệu phục hồi cuộc thương thuyết tiếp tục. Đến tháng 3, 1999, hai bên Việt Mỹ cho biết đã thỏa thuận trên nguyên tắc bản văn của Thỏa ước,  chỉ còn chờ luật sư hai bên xem lại các chi tiết hành văn cho hợp luật quốc tế và luật lệ hiện hành của hai nước trước khi hai chính phủ chính thức ký kết. Theo lời của đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Pete Peterson thỏa ước này sẽ là viên gạch xác định quan hệ thân hữu giữa Hoa kỳ và Việt Nam trong 50 năm tới (Mercury News Vietnam Bureau 18/10/99 by Mark McDonald). Giới quan sát Việt Mỹ tin rằng sau khi thỏa ước được hai quốc hội của hai nước phê chuẩn, tổng thống Clinton có thể sẽ là vị tổng thống đầu tiên chính thức thăm viếng Việt Nam.

Quan trọng như vậy, tại sao Việt Nam không ký? Bình luận về sự việc này các chuyên viên Việt Mỹ ở ngoài chính quyền từ giáo sư đại học, chính trị gia, cựu đảng viên và cựu viên chức chính quyền cộng sản Việt Nam đang lưu vong nước ngoài đến các nhà báo và chuyên viên kinh tế đã đưa ra nhiều lý giải xác đáng mà chính yếu là vào phút chót có sự tranh chấp giữa hai khuynh hướng cứng rắn và cởi mở trong nội bộ đảng cộng sản, và nhà cầm quyền Việt Nam lo sợ sự mở rộng cửa một  số lĩnh vực kinh tế xưa nay độc quyền của đảng như lĩnh vực quốc doanh sẽ làm quyền lực chính trị của đảng suy yếu.

Nhưng có thể còn một lý do khác: Mất mặt vì tự ái bị đụng chạm

Trong 6 tháng liền từ tháng 9/1998 đến tháng 3/1999 các thương thuyết gia Việt Nam gặp phái đoàn Hoa kỳ mỗi tháng một lần để bàn thảo chi tiết  bản Thỏa ước mậu dịch song phương dưới sự chỉ đạo của Phó thủ tướng đặc trách kinh tế Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Chính trị bộ. Ông Dũng đã có cơ hội báo cáo và thuyết phục Chính trị bộ đảng cộng sản Việt Nam, theo thông lệ họp mỗi tuần một lần, nên Chính trị bộ không đến nổi quá bất ngờ về nội dung cũng như  ảnh hưởng của bản Thỏa ước để phải hoảng hốt phản ứng khi sắp đặt bút ký.

Nhưng từ khi công bố kết quả đạt được sau vòng thương thuyết thứ bảy trong tháng 7/1999, phía Hoa Kỳ và dư luận xoa tay khoan khoái "Xong rồi; Đảng cộng sản Việt Nam đã chịu quỳ gối; Nhân quyền và dân chủ sắp được phục hồi ..." làm cho đảng cộng sản Việt Nam bực bội.

Người cộng sản nhất là người cộng sản Á châu nhiều tự ái. Họ có thể nhượng bộ nhưng đừng làm họ mất mặt. Và họ có thói quên ưa tuyên truyền. Trong cuộc thương thuyết tại Paris để tìm một giải pháp cho cuộc chiến tranh Việt Nam năm 1968, trong gần một tháng các buổi họp công khai giữa đại sứ Hoa Kỳ W Averell Harriman và cựu bộ trưởng ngoại giao Xuân Thủy không mang lại một kết quả nào. Hà Nội chỉ dùng diễn đàn của hội nghị để tuyên truyền. Cho đến khi Hoa kỳ đề nghị thương thuyết mật và Hà Nội cử Lê Đức Thọ sang Paris bắt đầu các cuộc thương thuyết kín đáo với Henry Kissinger, cuộc thương thuyết mới bắt đầu có tiến bộ. Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam ký ngày 23/1/73 là kết quả của cuộc thương thuyết mật giữa Kissinger và Lê Đức Thọ.

Lần này cũng vậy. Phía Hoa Kỳ, vì nhu cầu chính trị nội bộ, như giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng nêu ra khi trả lời một cuộc phỏng vấn của báo Ngày Nay (Houston, Hoa Kỳ, số 421 ngày 15/10/99): "Để giảm sự chống đối trong nội bộ của Mỹ, nhất là của Quốc Hội, những người Mỹ ủng hộ thương ước, kể cả các nhân vật lãnh đạo sứ quán Mỹ tại Hà nội, rêu rao rằng ký kết thương ước không những lợi cho quyền lợi kinh tế của Mỹ mà còn đem đến sự cải thiện nhân quyền và tiến trình dân chủ hóa tại Việt Nam." Mặt khác, các thương gia Mỹ,  qua báo chí,  thúc bách Việt Nam hãy lẹ lên để quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn trước khi nghỉ lễ cuối năm vì - họ cảnh cáo - qua năm 2000 Hoa Kỳ bận rộn với cuộc tranh cử tổng thống cuối năm 2000 sẽ không thèm để ý đến bản Thỏa ước mậu dịch song phương Việt Mỹ đâu. Chính quyền và báo chí Hoa Kỳ làm như chỉ có phía quốc hội Hoa Kỳ là quan trọng, còn phần Việt Nam xem như xong rồi. Tất cả những điều đó đã khơi dậy sự tự ái cố thủ của những thành phần lãnh đạo đảng để đi đến quyết định: "Hãy khoan ký Thỏa ước mậu dịch song phương với Hoa Kỳ."

Chính trị bộ đảng cộng sản Việt Nam có thể đã đồng ý với nhau rằng trong không khí tuyên truyền bất lợi trước khi ký Thỏa ước, việc ký thỏa ước có thể tạo nên bất ổn chính trị trước khi nó mang tới những lợi ích kinh tế cho Việt Nam.

Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Chính trị bộ, Phó thủ tướng đặc trách kinh tế, linh hồn sau lưng bản Thỏa ước không phải vô tình mà nhấn mạnh về nhu cầu ổn định xã hội -chính trị là hàng đầu trong kế hoạch phát triển kinh tế khi ông phát biểu trước hội nghị thượng đỉnh Kinh tế Đông Á châu (East Asia Economic Summit) lần thứ 8 tại Singapore ngày 19/10/99. Ông Dũng nêu ra 5 biện pháp xã hội - kinh tế Việt Nam sẽ theo đuổi (dù ông không nói rõ ra, người ta cũng hiểu là sẽ thực hiện mà không cần đến Thỏa ước bình thường hóa mậu dịch song phương với Hoa Kỳ), đó là: (1) huy động vốn và tài nguyên trong nước, (2) tăng gia phẩm chất hàng sản xuất để thúc đẩy xuất cảng, (3)  cải tiến hệ thống tài chánh, (4)  đẩy mạnh các chương trình huấn luyện nghề nghiệp, khoa học, kỹ thuật, y tế công cọng, bảo vệ môi sinh, và sau cùng (5) đẩy mạnh cuộc cải tổ hành chánh và nâng cao khả năng quản lý của Nhà nước. Ông Nguyễn Tấn Dũng gián tiếp kêu gọi sự hợp tác của các quốc gia trong vùng trên căn bản tôn trọng lẫn nhau (theo Vietnam Agency 19/10/99 "Nguyen Tan Dung: Socio-Political Stability is Prerequisite.")

Ít nhất trong lúc này, một phần vì tự ái, một phần không muốn bị thúc bách ký một thỏa ước có nhiều điểm chưa thật hài lòng, Việt Nam sẽ không ký bản Thỏa ước mọi người mong chờ. Việc quốc hội Hoa kỳ bận rộn với năm bầu cử tổng thống và ngay cả việc Tổ chức Mậu dịch Quốc tế (World Trade Organization - WTO) sắp họp tại Seattle vào cuối tháng 11 này có thể thông qua một số điều khoản mới về mậu dịch quốc tế liên quan  đến sản phẩm nông nghiệp, dịch vụ, thuế nhập cảng, đầu tư và lao động (theo Reuters 19/10/99, "New WTO rules might derail Vietnam - US trade deal"  by Dean Yates) buộc nội dung bản thỏa ước đã được Việt Nam và Hoa Kỳ thỏa thuận phải được duyệt xét lại để phù hợp với các nguyên tắc mới cũng không phải là điều Chính trị bộ đảng cộng sản Việt Nam quan tâm nữa. Giới quan sát ít có hy vọng Hội nghị Trung Ương đảng cộng sản Việt Nam họp đầu tháng 11/99 sẽ thay đổi quyết định của Chính trị bộ. Hội nghị họp để nghe Chính trị bộ trình bày những lý do tại sao không ký Thỏa Ước vào lúc này hơn là để thảo luận và lấy quyết định.

Nếu năm 2000 Hoa Kỳ bận rộn với chương trình chính trị nội bộ thì Việt Nam kiên nhẫn chờ. Năm 2001 hay 2002, bản thỏa ước sẽ được mang ra bàn thảo lại vì Việt Nam và Hoa Kỳ đều có nhu cầu ký. Hà Nội hy vọng lần này chính phủ Hoa Kỳ, trước thúc bách của giới kinh doanh Mỹ, sẽ thay đổi nội dung một sồ điều khoản cho hợp với khẩu vị của mình.

Lúc đó, nếu chính phủ Hoa Kỳ bớt khoe khoang một chút và nói ít đi một chút kiểu Kissinger - Lê Đức Thọ thì may ra Thỏa Ước sẽ được thành hình, tạo điều kiện cho một quan hệ lâu dài giữa Hoa Kỳ và Việt Nam như đại sứ Hoa Kỳ Pete Peterson trông chờ. Một quan hệ cần thiết cho thế chiến lược của Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương và nền an ninh của Việt Nam trước sự đe dọa của Trung quốc. (Oct. 1999)


Trần Bình Nam

http://www.vnet.org/tbn