CHỐNG KHỦNG BỐ VÀ CHÍNH TRỊ
Trần Bình Nam
 
Ngày 4 tháng 6 năm 2002 Liên ủy ban tình báo Quốc hội Hoa Kỳ bắt đầu
cuộc điều trần kín để tìm hiểu Cơ quan Cảnh sát Liên bang (Federal Bureau of
Investigation – FBI) và Cơ quan Tình báo Trung ương (Central Intelligence
Agency – CIA) đã làm gì để chống khủng bố với mục đích trả lời câu hỏi chính:
Nếu FBI  và CIA làm việc đúng chức năng
và có trách nhiệm thì Hoa Kỳ có thể ngăn ngừa được cuộc khủng bố ngày 11/9/2001
giết gần 5000 ngàn người ở New York và Washington D.C. không? 
Giữa tháng 5/2002 tin tức tiết lộ rằng hơn một năm trước giới an ninh
Hoa Kỳ có nhiều dữ kiện về một âm mưu đánh Hoa Kỳ của nhóm khủng bố Al Qaeda,
nhưng hoặc lơ là, hoặc không đánh giá dữ 
kiện đúng mức, hoặc vì một lý do nào đó đã không thi hành những biện
pháp ngăn ngừa cần thiết. 
 
Ngày 5 tháng 7, 2001 ông Kenneth Williams, một nhân viên thuộc văn
phòng FBI tại Phoenix, bang Arizona viết báo cáo cảnh giác rằng nhiều người gốc
Hồi giáo đang học lái máy bay một cách đáng nghi và đề nghị điều tra các đối
tượng, nhưng giới chức FBI ở trung ương cho là không cần thiết. Ngày 16 tháng
8, 2001 Sở Di Trú Hoa Kỳ bắt giữ 
Zacarias Moussaoui tại Minneapolis về tội cư trú bất hợp pháp và cuộc
điều tra của nhân viên FBI tại đó cho thấy hàng tung của hắn  khả nghi. Hắn học lái máy bay và chỉ xin học
lái chứ không học cách đáp xuống. Văn phòng FBI ở Minneapolis xin án lệnh lục
soát máy điện toán và vật dụng riêng tư của Moussaoui nhưng một lần nữa giới
chức FBI ở Hoa Thịnh Đốn không đồng ý. Việc này do bà Coleen Rowley, luật sư
của văn phòng FBI ở Minneapolis tiết lộ qua một thư dài gởi ông Robert Mueller,
giám đốc FBI khi ông này công khai tuyên bố cơ quan FBI đã không biết gì trước
để có thể tránh cuộc khủng bố ngày 9 tháng 11. 
 
Về phần cơ quan CIA sự sơ suất về chuyên môn lại càng lộ liễu hơn nữa.
Từ đầu năm 2000 CIA biết được hai người Hồi giáo tên là Khalid al- Mihdhar và
Nawaf al-Hazmi (sau này là hai trong số các tay khủng bố cướp chuyến bay số 77
của hãng American Airlines và đâm vào bộ quốc phòng Hoa Kỳ) có dính líu đến
nhóm khủng bố Al Qaeda. Lúc đó Khalid al- Mihdhar đã có chiếu khán được phép ra
vào Hoa kỳ nhiều lần và đã đến ở tại San Diego từ  tháng 11 năm 1999. CIA biết nhờ sự tiếp tay của tình báo Mã Lai Á
khi Khalid al- Mihdhar và Nawaf al-Hazmi đi Kualar Lumpur họp với một nhóm
khủng bố khác trong tháng giêng năm 2000. Sau đó cả hai bay trở lại Hoa Kỳ.
Nhưng CIA không thông báo cho Sở Di Trú cũng như FBI biết để theo dõi. Al-
Mihdhar và al-Hazmi sống thảnh thơi tại San Diego, lấy bằng lái xe, có tên thật
trong niên giám điện thoại và ghi tên học lái máy bay, thỉnh thoảng gặp những
tay khủng bố khác sau này cùng tham gia vào cuộc tấn công khủng bố ngày 9 tháng
11. Mãi đến ngày 23 tháng 8 năm 2001, CIA mới chính thức thông báo cho FBI về
hành tung khủng bố của al- Mihdhar và al-Hazmi. Nhưng đã quá trễ. 
 
Tin tức tình báo dồn dập trong mùa hè năm 2001 đưa đến khuyến cáo bộ
trưởng Tư Pháp John Ashcroft không nên dùng máy bay dân sự trong khi di chuyển
và cần báo cáo cho tổng thống. Tổng thống Bush được thông báo ngày 6 tháng 8 về
một nguy cơ tấn công của nhóm khủng bố Bin Laden. Tuy nhiên từ tòa Bạch Ốc, đến
FBI và CIA đều nghĩ đó chỉ là tin tức chưa phải là chỉ dẫn đe dọa với tâm lý
rằng quân khủng bố Hồi giáo làm gì thì làm chứ chúng sẽ không dám đánh thẳng
vào đất nước Hoa Kỳ.
Đó là chuyện xẩy ra trong năm 2001.
 
Trở về chuyện hôm nay. Trước nghi vấn của dân chúng và báo chí tổng
thống Bush tuyên bố một cách chắc nịch rằng: “Nếu tôi biết kẻ thù sẽ dùng máy
bay để giết người trong buổi sáng đau buồn đó, tôi đã làm những gì cần thiết để
bảo vệ người Mỹ (Had I known that the eneny was going to use airplanes to kill
on that fateful morning, I would have done everything in my power to protect
the American people). Dân chúng Mỹ tin lời tổng thống vì vô lẽ ông biết mà ông
không làm gì. Hơn nữa, ai cũng tự hỏi, 
nếu biết thì có cách gì ngăn chận được không? 
 
Tuy nhiên các phụ tá cao cấp của tổng thống lại tuyên bố những điều
khác với sự thật và làm cho dân chúng thêm hoài nghi. Bà Condoleezza Rice, cố
vấn an ninh quốc gia trong tuần lễ sau ngày 15/5/2002 tuyên bố: “Tôi không
nghĩ  có ai đoán rằng bọn họ có thể dùng
máy bay làm hỏa tiễn sống”. Bà Rice quên rằng CIA đã từng ngăn chận được hai
cuộc khủng bố định cướp máy bay làm hỏa tiễn sống, một đâm vào Tháp Eiffel ở
Paris, một đâm vào tổng hành dinh của cơ quan CIA. Bà Rice còn nói: “Các chỉ
dẫn đều cho thấy bọn khủng bố sẽ đánh vào cơ sở của Hoa kỳ tại hải ngoại thôi.”
Bà quên rằng trong một số báo giữa tháng 5/2002 tờ nhật báo Washington Post  viết rằng trong buổi họp ngày 6 tháng 8,
2001 tổng thống Bush được báo cáo rằng “Bin Laden quyết định đánh trên đất Mỹ.”
 
Ông Robert Mueller, giám đốc FBI hình như cũng đã không nói thật. Ngày
17/9/2001 (6 ngày sau cuộc tấn công New York và bộ Quốc Phòng), ông nói với báo
chí: “Tôi không thấy một nguồn tin tình báo nào khả tín để đoán rằng quân khủng
bố có thể mở một cuộc đánh phá như vậy trên đất Mỹ”. Thế nhưng bây giờ ai cũng
biết ngay sau ngày 11/9/2001 thì ông ta và bộ trưởng Ashcroft đều được báo cáo
rằng trong tháng 7/2001, văn phòng FBI ở Phoenix đã gởi một báo cáo viết rằng
sau nhiều năm thu lượm tin tức văn phòng này đoán rằng Bin Laden có thể gởi
người sang Hoa Kỳ để học lái máy bay. 
 
Nếu CIA đã thông báo hành tung của al-Mihdhar và al-Hazmi cho FBI; nếu
giới chức có thẩm quyền của FBI  quan
tâm đến báo cáo tháng 7/2001 của FBI ở Phoenix, và cho duyệt xét lý lịch và bám
sát hành tung của những người gốc Hồi giáo đang học lái máy bay ở Florida và
vài nơi khác tại Hoa kỳ; nếu FBI đã xin án lệnh lục soát máy điện toán và đồ
riêng tư của Moussaoui ; và nếu chính phủ Hoa Kỳ đã báo động cho các hãng máy
bay dân sự đề phòng thì có thể vì bị động bọn chỉ huy khủng bố đã ra lệnh ngưng
cuộc tấn công.
 
Trước bằng chứng làm ăn cẩu thả của chính quyền Cộng Hòa và uy tín sứt
mẻ của tổng thống Bush, các viên chức cao cấp của Bush vội vã và nhịp nhàng
cảnh giác dân chúng về những cuộc tấn công không thể tránh được trong tương lai
để đánh lạc dư luận. Cuối tháng 5 vừa qua Phó tổng thống Dick Cheney nói những
cuộc tấn công khủng bố tương lai là một điều không thể tránh được; Tom Ridge,
phụ trách an ninh nội xứ nói quân khủng bố sẽ thuê phòng trong những khu
chung  cư rồi chất đầy chất nổ, Robert
Mueller, giám đốc FBI nói quân khủng bố sẽ đánh bom kiểu tự sát; và bộ trưởng
Quốc Phòng Donald Rumsfeld nói trước Thượng viện rằng quân khủng bố chắc chắn
sẽ dùng vũ khí nguyên tử, hóa học hay vi trùng trong tương lai. Các lời báo
động trên nói lên một điều: Cuộc chiến tranh chống khủng bố đã được chính trị
hóa. 
 
Cuộc điều trần nhức nhối về trách nhiệm của chính quyền Bush đang diễn
ra tại Quốc Hội. Và tổng thống Bush cần một hành động để đỡ đòn. Hôm  6 tháng 6 tổng thống Bush gởi đến quốc hội
một chương trình lớn, đề nghị biến Phòng An Ninh Nội địa thành Bộ An ninh Nội
địa (Department of Homeland Security) rút nhân viên từ 8 bộ khác, quan trọng
nhất là 3 bộ Quốc Phòng, Tư Pháp, Tài Chánh với ngân sách trên 34 tỉ mỹ kim.
Trước đây (sau cuộc khủng bố 11/9), Quốc hội đã nghĩ đến điều này nhưng tổng
thống Bush cho rằng việc thành lập một cơ cấu phụ trách an ninh nội địa cấp Bộ
quá nhiêu khê. Tổng thồng Bush cho thành lập Phòng An Ninh Nội địa không cần
thông qua ý kiến của Quốc hội. Nhưng nay ông đổi ý vì nhu cầu chính trị. Và vì
vậy có thể đảng Dân chủ trong cả hai viện quốc hội sẽ tìm cách trì hỗn việc lập
bộ An ninh nội địa cho đến sau cuộc bầu cử quốc hội vào cuối năm nay.
 
Trong dịp cuối tuần 24/5 – 27/5 nhằm lễ Chiến sĩ Trận vong (Memorial
Day),  các phi trường tại Hoa Kỳ đông
nghẹt hành khách chứng tỏ dân chúng không quan tâm mấy đến các lời cảnh cáo
khủng bố đang còn văng vẳng bên tai của Phó tổng thống, của bộ trưởng quốc
phòng, của ông giám đốc FBI và của ông Tom Ridge.
 
Nếu Quốc hội Hoa Kỳ cho chuyện đề nghị thành lập Bộ An ninh Nội địa của
tổng thống Bush lúc này là chuyện chính trị thì dân chúng cũng cho các lời cảnh
cáo khủng bố dồn dập cũng chỉ là chuyện chính trị phe đảng. Mệt mỏi  chuyện chính trị đảng phái dân chúng Hoa Kỳ
sẽ mất dần sự cảnh giác.
 
Cái lợi là không khí trong nước sẽ bớt căng thẳng. Điều nguy hiểm là,
đầu não của bọn khủng bố Al Qaeda, nếu chưa bị tiêu diệt, chỉ chờ có vậy.
 
Trần
Bình Nam (June 8, 2002)
 
Tài liệu tham khảo:
1.      The
Washington Post Weekly May 20 – 26 , 2002, “Tarnished Armor: Revelations
about Sept. 11 deliver a blow to Bush’s popularity” by Dana Milbank &
Mike Allen.
2.      The
Economist May 25 – 31st 2002, “A Systematic failure”
3.      US News
& World Report June 3, 2002, “What else was known”
4. Newsweek June 10, 2002, “The Hijackers We Let Escape” by Michael Isikoff & Daniel Klaidman.
 
 
| Trần Bình Nam | http://www.vnet.org/tbn |