Chuẩn Bị Đương Đầu Với Trung Quốc

Trần Bình Nam

Lời nói đầu: Trong cuốn "Cuộc đụng độ tương lai với Trung quốc" (The coming conflict with China) của Richard Bernstein & Ross H. Munro xuất bản lần đầu tiên năm 1997 hai tác giả sau khi trình bày mọi khía cạnh của quan hệ Mỹ - Hoa về quân sự cũng như về kinh tế, kết luận rằng Hoa Kỳ không thể tránh một cuộc đụng độ với Trung quốc trong tương lai. Hai tác giả cho đây là một vấn nạn vì Hoa Kỳ vừa phải chuẩn bị chiến tranh vừa phải tích cực bảo vệ hòa bình. Tương lai thế giới của thế kỷ 21 tùy thuộc vào sự thành công hay thất bại của các chính sách Hoa Kỳ. Tác giả xem Nhật Bản là một yếu tố quan trọng trên bàn cờ Á châu, nhưng không bàn gì đến vị trí của Việt Nam trong ván cờ, mặc dù Việt Nam đang là một yếu tố quan trọng trong chính sách Hoa Kỳ tại Á châu, nếu để ý đến vị trí tế nhị của Việt Nam đối với Trung quốc và Hoa Kỳ. Trần Bình Nam lược dịch chương cuối: "Chuẩn bị đương đầu với Trung quốc" (Coping with China). Những phần trong dấu ngoặc là phần ghi chú thêm của người dịch ***

Napoléon Bonaparte từng nói: "Khi Trung quốc tỉnh giấc, thế giới rung chuyển". Không ai ngạc nhiên về lời tiên đoán của Napoleon sau khi Mao chiếm lục địa Trung quốc năm 1949, và càng ít ngạc nhiên khi Trung quốc chấm dứt chính sách khép kín mở cửa giao thương với thế giới Tây phương chuẩn bị bước vào thế kỷ 21.

Vấn đề chính là làm thế nào để thế giới rung chuyển trong hòa bình và thịnh vượng chứ không phải rung chuyển trong bom đạn.

Đối sách của Hoa Kỳ đối với Trung quốc trong 4 năm qua thu gọn trong hai lựa chọn đơn giản: hợp tác giải quyết (engagement) hay đối đầu (containment). Hơp tác giải quyết được hiểu tiếp xúc với Trung quốc trên mọi địa hạt, và nhẹ nhàng thuyết phục Trung quốc khi cần, để Trung quốc trở nên có trách nhiệm hơn trong cộng đồng quốc tế.

Đương đầu, có nghĩa không tin cậy bất cứ chính sách quốc tế nào của Trung quốc và áp dụng chính sách chống Trung quốc như Tây phương đã làm đối với lbxv trong thời gian chiến tranh lạnh từ giữa 1940 đến suốt thập niên 1950. Chính sách đương đầu với Trung quốc thiếu căn bản thuyết phục vì Trung quốc không giống lbxv. lbxv từng là một siêu cường chủ trương thống trị thế giới qua chiêu bài bành trướng chủ nghĩa cộng sản. Trung quốc không có mộng biến Bắc Kinh thành thủ đô của thế giới, và nếu có mộng đất đai cũng chỉ giới hạn trong lĩnh vực chủng tộc, như đối với Đài Loan (hay địa phương như đòi chiếm biển Đôâng và tranh chấp Truờng Sa với Việt Nam). Trung quốc cũng chưa mạnh, và ít nhất trong thời gian vài chục năm trước mắt chưa phải là địch thủ của Hoa Kỳ.

Do đó chính phủ Clinton đã chọn chính sách "hợp tác giải quyết", nhắm lâu dài trên con đường trở thành siêu cường về quân sự và kinh tế Trung quốc sẽ theo xu thế thời đại tiến tới dân chủ. Một Trung quốc dân chủ không có nghĩa không còn tranh chấp quyền lợi với Hoa Kỳ, nhưng khả năng đụng độ vũ trang sẽ được giảm thiểu.

Lấy thí dụ Đài Loan. Chừng nào Trung quốc chưa có dân chủ, chiến tranh giữa Trung quốc và Đài Loan (hay giữa Trung quốc với Việt Nam vì vấn đề Trường Sa) với triển vọng kéo Hoa Kỳ vào cuộc, có khả năng xẩy ra nhiều hơn một Trung quốc dân chủ.

Hai lĩnh vực đụng chạm giữa Hoa Kỳ và Trung quốc hiện nay là mậu dịch liên hệ đến quyền lợi vật chất, và nhân quyền liên hệ đến quyền lợi tinh thần, hai lĩnh vực đòi hỏi hai chính sách chống nhau. Muốn lợi về mậu dịch Hoa Kỳ không thể áp lực Trung quốc tôn trọng nhân quyền; trái lại áp lực Trung quốc về mặt nhân quyền, Hoa Kỳ sẽ tổn thất về mậu dịch.

Vậy Hoa Kỳ cần một chính sách thăng bằng giữa hai quyền lợi.

Cho đến lúc này (và có thể còn dài trong tương lai chừng nào các chính khách Hoa Kỳ hành động chỉ cốt mị dân kiếm phiếu) chính sách của Hoa Kỳ thường đi từ thái cực này đến thái cực khác. Khi Trung quốc đàn áp phong trào dân chủ tại Thiên An Môn, Hoa Kỳ tẩy chay Trung quốc và làm thiệt hại quyền lợi Hoa Kỳ về mặt mậu dịch. Vài tháng sau khi thấy một số giao kèo bán hàng béo bở rơi vào tay Nhật và Aâu Châu, Hoa Kỳ đổi chính sách xem việc tố cáo Trung quốc vi phạm nhân quyền là quá vội.

Căn bản của một chính sách là xác định rõ ràng mục tiêu của chính sách. Hoa Kỳ nhắm 3 mục tiêu: thứ nhất, hòa bình tại Á Châu bằng cách duy trì cân bằng quyền lực trong vùng; thứ hai, thuyết phục Trung quốc hành động có trách nhiệm trong lĩnh vực vũ khí, tôn trọng nguyên tắc giải quyết tranh chấp giữa các nước bằng phương pháp hòa bình, và tiến tới mậu dịch tự do ngay thẳng; và thứ ba tạo điều kiện thúc đẩy Trung quốc tiến tới một chế độ dân chủ đa nguyên đặt căn bản trên bầu cử tự do. (Mục tiêu thứ ba cũng phải là mục tiêu của một chính sách Hoa Kỳ đối với Việt Nam vì một Việt Nam dân chủ sẽ là một Việt Nam mạnh dễ chọn lựa chính sách trường hợp cần dứt khoát giữa Hoa Kỳ và Trung quốc)

Làm thế nào qua mậu dịch và xiểng dương các giá trị tinh thần của Tây phương Hoa Kỳ thực hiện ba mục tiêu chiến lược trên?

Trong lĩnh vực mậu dịch Hoa Kỳ có nhiều thế để áp lực Trung quốc, nhưng Hoa Kỳ thường làm lợi cho Trung quốc nhiều hơn, vì Hoa Kỳ không kiên nhẫn trong việc thương thuyết. Trung quốc tự do bán hàng hóa sang Hoa Kỳ, nhưng Hoa Kỳ không tự do bán hàng hóa sang Trung quốc vì hàng rào quan thuế của Trung quốc bảo vệ những mặc kinh tế Trung quốc nói cần bảo vệ. Bằng thặng dư mậu dịch Trung quốc có một số ngoại tệ dự trữ khổng lồ tạo sức mạnh kinh tế và chính trị cho Trung quốc trong tương lai. Trung quốc dùng tiền của Hoa Kỳ để mua vũ khí tối tân nhất của lbn và Aâu châu. Và sau cùng dùng tiền của Hoa Kỳ trợ cấp cho các ngành sản xuất thua lỗ của Trung quốc.

Hoa Kỳ cần có biện pháp giải quyết vấn đề mậu dịch bất lợi này.

Hiện nay Trung quốc chỉ nhập cảng khoảng 25% số lượng Hoa Kỳ nhập cảng của Trung quốc. Hoa Kỳ cần yêu cầu Trung quốc thi hành biện pháp nội bộ Trung quốc thấy cần để tăng tỉ số 25% này lên dần ít nhất 5% mỗi năm.

Nếu Trung quốc không thực hiện được Hoa Kỳ sẽ tăng thuế các hàng nhập cảng của Trung quốc, đặc biệt nhắm vào máy điện toán và dụng cụ điện tử. Trung quốc sẽ ồn ào phản đối, nhưng nếu Hoa Kỳ cương quyết Trung quốc sẽ chịu thua vì Trung quốc biết thị truờng Hoa Kỳ là thị truờng tốt nhất thế giới của Trung quốc, nhất là đối với hàng điện tử và điện toán.

Trong trận giặc mậu dịch với Hoa Kỳ Trung quốc kiên nhẫn tìm thế hóa giải. Thứ nhất, tích cực vận động Hoa Kỳ chấp nhận qui chế Tối Huệ Quốc vĩnh viễn chứ không xét lại hằng năm (mặc dù trên thực tế Hoa Kỳ khó bãi bỏ qui chế này đối với Trung quốc) và vận động để Hoa Kỳ thôi không chống Trung quốc gia nhập Tổ chức Mậu dịch Quốc tế (World Trade Organization - WTO, thành hình từ năm 1994 thay thế tổ chức GATT - General Agreement on Tariffs & Trade) với qui chế một nước đang phát triển.

Hoa Kỳ cần thận trọng vì đây là hai đòn bẩy tạo sức ép đối với Trung quốc. Từ năm 1993 sau khi biết không thể cứng rắn với Trung quốc (theo cung cách kẻ cả của Clinton vì chưa có kinh nghiệm sau khi trở thành tổng thống), Clinton trở nên mềm dẻo, và năm 1996 sau khi tái đắc cử hứa sẽ xét việc gia nhập WTO của Trung quốc sau hai thượng đỉnh (1997 của Giang Trạch Dân, và 1998 của tổng thống Clinton). Để bắt cái mồi WTO, Trung quốc đã tìm cách mua chuộc giới dân biểu, nghị sĩ Hoa Kỳ đồng thời gián tiếp đổ tiền giúp ông Clinton trong cuộc tranh cử tổng thống năm 1996. (Giang o bế ông Clinton bằng cách cho phát hình trực tiếp cuộc họp báo của Giang và Clinton tại Bắc Kinh tháng 6 vừa qua.)

Nếu Hoa Kỳ nhẹ dạ để Trung quốc vào WTO với qui chế đặc biệt Hoa Kỳ sẽ khó trả đũa khi Trung quốc vi phạm các nguyên tắc mậu dịch vì WTO sẽ là cơ quan trọng tài. Việc xét xử kéo dài từ năm này sang năm khác cuối cùng Hoa Kỳ là nước mệt mỏi trước như những vụ kiện do GATT phân xử trước đây.

Về nhân quyền chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung quốc thiếu tính thuần nhất và đôi khi đạo đức giả. Hoa Kỳ thường tốâ cáo mạnh mẽ các vi phạm nhân quyền của Trung quốc và lúc nào hình như cũng sẵn sàng áp dụng biện pháp trừng phạt nhưng chỉ "dơ cao đánh sẽ" không làm gì hết. Lý do, một phần, vì dư luận Hoa Kỳ bất nhất, nghiêng ngả theo khả năng vận động của các nhà tài phiệt, một phần vì tư thế kinh tế và tài chánh của Trung quốc trên thế giới càng ngày càng vững chắc hơn. Thời gian càng trôi qua Trung quốc càng có khả năng hóa giải áp lực của Hoa Kỳ.

Về nhân quyền, Hoa Kỳ tương đối có nhiều khó khăn hơn so với mặt trận mậu dịch. Trước hết Hoa Kỳ không thể sai bảo một nước có chủ quyền và là một lực lượng quân sự và kinh tế đang lên phải đối xử như thế nào đối với các người bất đồng chính kiến trong nước. Hoa Kỳ không thể chịu hy sinh quyền lợi của mình để bảo đảm dân của một nước khác phải được chính quyền nước đó đối xử tử tế. Nhưng ngược lại Hoa Kỳ cũng không thể nhắm mắt làm ngơ khi các giá trị quí báu và căn bản của con người bị chà đạp.

Vậy Hoa Kỳ phải hành xử như thế nào?

Đối với nhân quyền Hoa Kỳ có hai mặt trận để phân biệt. Cần duy trì đường lối của chính phủ Clinton không nối kết nhân quyền trong nội địa Trung quốc với mậu dịch. Nhưng Hoa Kỳ phải tích cực trên mặt trận dư luận theo tinh thần của bản Hiến pháp Hoa Kỳ. Ủủng hộ đài Á châu Tự do (hoạt động từ mùa thu năm 1996) chuyển đến cho dân Trung quốc qua làn sóng điện tin tức chính xác, vô tư về những gì đang xẩy ra tại Trung quốc và trên thế giới. Ủủng hộ các nhóm người Trung quốc tranh đấu cho nhân quyền ở hải ngoại để họ in và phổ biến các vi phạm nhân quyền của nhà nước Trung quốc. Và ủng hộ các nhóm đấu tranh xây dựng dân chủ trong nước bằng đường lối hòa bình. Hoa Kỳ cần đặt vấn đề nhân quyền tại các diễn đàn quốc tế, chẳng những trước Uủy ban Nhân quyền Liên hiệp quốc mà còn ở trước những Uủy ban không liên hệ như Unesco và Tổ chức Lao động Quốc tế. Hoa Kỳ cần vận động để các tổ chức không thuộc chính phủ (Non - governmental organizations - NGO) chân chính của người Trung quốc có tiếng nói trước các diễn đàn quốc tế. (Hoa Kỳ cũng cần yểm trợ các phong trào tranh đấu cho nhân quyền tại Việt Nam theo kế hoạch này.)

Các công tác nói trên đòi hỏi một ngân khoản và không đem lại kết quả ngay, vì vậy Hoa Kỳ cần kiên nhẫn. Cần thực tế thấy rằng Trung quốc là một nước độc tài từ nhiều thế kỷ qua, và dù thế giới làm gì Trung quốc cũng còn nằm dưới chế độ độc tài một thời gian dài nữa, nhưng nếu Hoa Kỳ không thúc đẩy nhân quyền và dân chủ sớm thực hiện theo truyền thống, trong khả năng và trong hướng bảo đảm quyền lợi kinh tế của Hoa Kỳ, thì Hoa Kỳ không xứng đáng là một đại cường dân chủ trên thế giới.

Đối đãi với Trung quốc cần tính toán nhưng rõ ràng và có nguyên tắc. Đừng bao giờ quên những gì bộ máy tuyên truyền của Trung quốc nói về Hoa Kỳ, và những tính toán lâu dài của Trung quốc để nuốt chửng Hoa Kỳ.

Nếu cần phải đón tiếp Giang Trạch Dân, đón tiếp nghiêm chỉnh theo nghi lễ nhưng không cần phải làm đình làm đám và ngoại giao quá đáng (như tổng thống Clinton đã hết lời khen tài lãnh đạo của họ Giang trong chuyến viếng thăm Trung quốc tháng 6/ 98). Thượng đỉnh không phải là dịp để cho nhà độc tài tạo thêm uy tín, mà là dịp để nói lên sự khác biệt về quan niệm giá trị và để thúc đẩy các chính sách phục vụ quyền lợi tinh thần và vật chất của Hoa Kỳ.

Năm 1996, một ủy ban gồm 24 chiến lược gia Hoa Kỳ đủ mọi khuynh hướng chính trị cho phổ biến bản báo cáo nhan đề "America's National Interests" (Quyền lợi tối thượng của Mỹ quốc) kết luận có 5 lĩnh vực đe dọa nếp sống tự do và an ninh Hoa Kỳ. Hai lĩnh vực đứng đầu danh sách là: một cuộc tấn công bằng vũ khí nguyên tử, vi trùng hay hóa học đánh vào nước Mỹ, và sự xuất hiện một siêu cường thống trị Aâu châu hay Á châu.

Triển vọng này không thấy ở Aâu châu, nhưng có thể thấy ở Á châu qua sự lớn mạnh của Trung quốc. Nếu Trung quốc có hải quân, không quân hùng mạnh trang bị hỏa tiễn tầm xa đủ mạnh để trấn áp các quốc gia khác tại Á châu kể cả Nhật Bản Trung quốc có thể ngăn chận sự can thiệp của Hoa Kỳ tại chỗ, và đe dọa con đường biển của Hoa Kỳ. Nếu Hoa Kỳ không có đồng minh ở Đông Nam Á, Hoa Kỳ sẽ không có khả năng hành động như ở Trung Đông năm 1991. Hoa Kỳ sẽ không thể làm gì khác hơn là nhượng bộ Trung quốc từng bước để tránh chiến tranh hoặc tuyên chiến với Trung quốc mở đầu cuộc chiến tranh toàn diện.

Chính sách dài hạn của Trung quốc là ngăn không cho Hoa Kỳ có căn cứ lâu dài ở Á châu để cô lập hóa Hoa Kỳ trong vùng Thái bình dương. Hiện nay Trung quốc còn yếu chưa làm được gì để thực hiện ý đồ này vì Hoa Kỳ còn có nhiều đồng minh tại đó, ngoại trừ vài thành quả khiêm nhường như áp lực được Thái Lan không cho phép Hoa Kỳ tồn trữ vũ khí và quân dụng trên các tàu nổi nằm trong hải phận Thái, và không cho phép Hoa Kỳ dựng đài tiếp vận đài tiếng nói Á Châu Tự Do trên đất Thái.

Trong bối cảnh đó chính sách của Hoa Kỳ tại Á châu là Trung quốc có thể là một siêu cường nhưng không thể là nước bá chủ. Hoa Kỳ cần duy trì một lực lượng quân sự mạnh gấp nhiều lần sức mạnh của Trung quốc, và duy tri khả năng kỹ thuật và học hiện có.

Ngoài ra Hoa Kỳ cần quan sát khả năng nguyên tử của Trung quốc, không để Trung quốc ngang hàng nguyên tử như giữa Hoa Kỳ và lbxv trong cuộc chiến tranh lạnh. Về mặt này Trung quốc sẽ khôn ngoan không chạy đua vũ khí nguyên tử với Hoa Kỳ vì Trung quốc sẽ mất khả năng phát triển các mặt khác cần thiết hơn; hơn nữa Trung quốc không muốn thúc Nhật Bản và Aán Độ trang bị vũ khí nguyên tử để tự vệ trước đe dọa của Trung quốc (dù vậy Aán Độ cũng đã tự trang bị vũ khí nguyên tử vì Aán Độ tin Trung quốc có ý đồ)

Hoa Kỳ cũng cần tạo điều kiện để cho cuộc chiến tranh giữa Trung quốc và Đài Loan không xẩy ra, bằng cách thuyết phục Đài Loan không tuyên bố độc lập và trang bị vũ khí cho Đài Loan để làm nản lòng Trung quốc.

Sau cùng Hoa Kỳ cần một Nhật bản mạnh (và một Việt Nam mạnh liên minh với Hoa Kỳ). Lý thuyết được nói đến trong bao năm qua rằng Nhật Bản mạnh sẽ đe dọa sự ổn định tại Á châu không còn giá trị khi Trung quốc là lực lượng đang lên. Không có Nhật Bản ai lấp khoảng trống quyền lực khi một mình Hoa Kỳ không thể lấp hết được? Một Nhật Bản mạnh đồng minh với Hoa Kỳ là điều then chốt để duy trì ổn định tại Á châu.

Tuy nhiên Hoa Kỳ không có lợi gì nếu xem Trung quốc là kẻ thù. Xem Trung quốc là bạn nhưng cảnh giác trước âm ưu của ông bạn cho đến lúc nào Trung quốc hội nhập thực sự vào đời sống của cộng đồng thế giới. Thời gian trước mắt khó khăn nhất cho Hoa Kỳ vì Trung quốc đang được lãnh đạo bởi những người chưa có ý niệm về dân chủ (và tại Hoa Kỳ chưa có dấu hiệu gì một nhà lãnh đạo tài ba sẽ xuất hiện sau nhiệm kỳ của ông Clinton).

Nhưng nếu Hoa Kỳ giữ tình hình Á châu cân bằng được trong thế hệ này, trong khi Trung quốc đạt tới qui chế một siêu cường dân chủ, thế hệ tới sẽ là thế hệ của hòa bình. (July 1998)


Trần Bình Nam

http://www.vnet.org/tbn