Dân
chủ và Tự Do: 
Không ai cho. Phải giành mới có
Trần Bình 
Ngày 
Lời nói của tổng thống Bush làm nhiều người trên thế giới hiểu
lầm rằng Hoa Kỳ sẽ cầm lưỡi gươm cứu khốn phò nguy giải phóng tất cả những ai
đang bị áp bức, để kết luận rằng chúng ta không cần làm gì cả, chỉ cần đứng bên
bờ hồ la hét đòi tự do là sẽ có tự do. Xin chớ hiểu như vậy
để mà thất vọng. Dân chủ và tự do không đơn giản như thế. Ý chính của tổng thống Bush là, khi nào quý vị đứng dậy mới có
chúng tôi bên cạnh. Nói cách khác muốn có dân chủ tự do phải đấu tranh,
phải đổ máu, phải lao tù mới có được. Điều kiện tiên quyết
là phải đứng dậy và chấp nhận gian khổ trước, sự giúp đỡ sẽ theo
sau. 
Lịch sử đấu tranh cho tự do và dân chủ trên thế giới trong nửa
thế kỷ qua là những minh chứng hùng hồn:
Sau Thế chiến II Hung Gia Lợi nằm trong vòng ảnh hưởng của Liên
bang Xô viết. Năm 1949 chính phủ cộng sản Hung Gia Lợi ra
đời. Năm 1956 Imre Nagy hy vọng Tây Phương sẽ không để Hung Gia Lợi cô
đơn đã vận động đưa Hung Gia Lợi ra khỏi ách thống trị của Liên bang Xô viết và
đã bị Stalin dìm cuộc vận động trong máu. Tuy nhiên sau cuộc đàn áp Liên bang Xô
viết phải nới lỏng bàn tay, và từ năm 1956 đến năm
1988 dân chúng Hung Gia Lợi được hưởng một chế độ tương đối dễ thở cho đến năm
1989 qua phong trào giải phóng Đông Âu Hung Gia Lợi trở thành một quốc gia độc
lập.
Cuộc nổi dậy tiếp theo là của nhân dân Tiệp Khắc. Năm 1968
nghiệp đoàn các nhà văn Tiệp Khắc theo chân nhà văn hào Nga Solzhenitsyn đứng lên
chống chính sách kiểm duyệt văn hóa của nhà nước đã dấy lên phong trào đấu
tranh toàn quốc. Cũng như tại Hung Gia Lợi, Liên bang Xô viết mang Hồng quân
vào dẹp cuộc nổi dậy. Nhưng nhân dân Tiệp Khắc không nhụt chí.
Năm 1977,  240 nhà trí thức Tiệp Khắc
công bố bản Hiến chương 77 và một lần nữa những người trí thức này bị trấn áp và
tù đày mở đầu cuộc cách mạnh nhung,
mang độc lập đến cho nhân dân Tiệp Khắc năm 1989.
Tại Ba Lan cuộc đấu tranh của nhân dân
Ba Lan âm ỉ và tiệm tiến từ năm 1947 (dưới ảnh hưởng của giáo hội Công giáo La
mã. 90% dân Ba lan theo Công giáo) ngay sau khi một chính quyền cộng sản do
Liên bang Xô viết nhào nặn ra đời. Lập trường đấu tranh của Ba Lan dưới sự lãnh đạo của Lech Walesa, một người thợ điện là
thợ thuyền có quyền thành lập nghiệp đoàn độc lập không chịu sự lãnh đạo của
đảng Cộng sản Ba Lan. Cuộc đụng độ chính trị đầu tiên giữa nghiệp đoàn và chính
quyền Cộng sản Ba Lan xẩy ra cuối năm 1970. Đến năm
1978 Lech Walesa tổ chức Nghiệp đoàn Tự do và tháng 8 năm 1980 chính thức thành
lập Nghiệp đoàn Đoàn kết Ba Lan. Bốn tháng sau trước
đe dọa xâm lăng của Liên bang Xô viết, chính phủ Ba
Lan giải tán Nghiệp đoàn Đoàn kết. Hành động này làm cho kinh tế Ba Lan xuống dốc thê thảm buộc chính phủ Ba Lan phải công nhận
Nghiệp đoàn. Qua hai thập niên kiên trì tranh đấu, thành viên của Nghiệp đòan đã
bị bắt bớ, tù đày, thậm chí bị vu cáo, ám sát cho mãi đến đầu năm 1989 đảng
Cộng sản Ba Lan mới chấp nhận thương thuyết với Nghiệp đoàn và cuối năm 1989 đồng
ý tổ chức bầu cử tự do mở cửa cho một nền dân chủ đa nguyên và kinh tế thị trường
khi uy quyền của Liên bang Xô viết đang trên đà suy thoái.   
Sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa đầu thập niên
1990 đánh dấu một thời gian thế giới tái tổ chức, một bên là các nước Đông Âu,
một bên là các nước trước kia thuộc Liên bang Xô viết nay được độc lập. Các nước Đông Âu có truyền thống dân chủ nên sự hội nhập vào cộng
đồng dân chủ pháp trị tương đối ít vấn đề. Các nước này chỉnh đốn được
thể chế dân chủ qua bầu cử tự do, phát triển kinh tế
và bắt đầu gia nhập khối NATO và Liên hiệp Âu châu. Trong khi
đó sự hội nhập của các nước thuộc Liên xô cũ có vấn đề. Dân chủ đa
nguyên bị lợi dụng và dung nhan của độc tài tái xuất hiện dưới nhãn hiệu dân
chủ.
Một thập niên trôi qua, bước vào thế kỷ 21, đòi hỏi của lịch sử buộc
bánh xe dân chủ lại chuyển mình. Khởi
đầu với cuộc đấu tranh của dân 
Tại 
Cuộc cách mạng tại Kyrgyzstan tháng 3 năm 2005 mệnh danh là cuộc
cách mạng tulip khác với hai cuộc
cách mạng tại Georgia và Ukraine.Tại Kyrgyzstan sau một cuộc bầu cử quốc hội
lem nhem do bàn tay của chính quyền dân chúng đã xuống đường phản đối và trở thành
bạo động khi chính quyền ra lệnh đàn áp. Tổng thống Askar Akayev bỏ chạy sang
Liên bang Nga tị nạn và từ chức. Một cuộc bầu cử tổng thống
sẽ được tổ chức vào cuối tháng 6/2005. Tại 
Với cuộc cách mạng hồng
tại Georgia năm 2003, các mạng vàng
năm 2004 tại Ukraine, và cách mạng tulip
tại Kyrgizstan năm 2005 thế giới đang chú ý đến Kazakhstan, một nước lớn nằm
phía bắc của Kyrgyzstan. Tình hình tại đó đã chín và  nếu cuộc bầu cử cuối năm 2005 hay năm
sau được tổ chức gian lận, dân chúng 
Tại Liên bang Nga, tổng thống Valadimir
Putin đang được lòng dân với chính sách quốc gia cực đoan nhưng đang nghiêng dần
về phía độc tài. Đối lập tại Liên bang Nga bị hạn chế hoạt động, nhất là những
người đối lập có khuynh hướng thân Tây phương. Quyền tự do ngôn luận từng là
bàn đạp cho các biến chuyển dân chủ tại Liên bang Nga từ những ngày glasnost và perestroika đang dần dần bị hạn chế và đe dọa. Nhiều nhà báo Nga bỏ
nước sang sinh sống tại 
Các biến cố chính trị từ những năm 1956 qua thập niên 1970, và
thập niên 1980 đưa đến sự sụp đổ của Đông Âu và Liên bang Xô viết và những biến
động trong những năm vừa qua tại các nước vốn thuộc Liên bang Xô viết, cũng như
tại Serbia, tại Lebanon và đang manh nha tại Ai Cập cho thấy một điều: các
chính quyền độc tài không bao giờ biết mình đã mãn thời. Họ dùng
mọi phương tiện từ thủ đoạn chính trị đến bạo lực để duy trì quyền hành chính
trị và quyền lợi vật chất. Trong những chính quyền độc
tài chính quyền cộng sản là thủ đoạn nhất trong ý đồ duy trì quyền lực.
Họ phủ lên cái ruột độc tài bằng cái vỏ  lý thuyết bịp bợm “dân làm chủ, nhà
nước quản lý, đảng lãnh đạo” đọc lên nghe kêu nhưng rỗng. Đi xa hơn họ hợp thức
hóa sự độc tài đảng trị bằng hiến pháp như Điều 6 của hiến pháp Liên bang Xô
viết trước khi sụp đổ, Điều 1 của hiến pháp Trung quốc và Điều 4 của hiến pháp
Việt 
Cho nên cái hệ luận tất yếu là để bật cái gốc của
những chính thể độc tài điều tiên quyết là người dân phải đứng dậy, chấp nhận
hy sinh và gian khổ đấu tranh chứ không thể chỉ đấu tranh bằng lời nói suông và
tuyên ngôn tuyên cáo. Theo bà Dana Niemcova, một phụ nữ Tiệp Khắc,
một trong những điều kiện để người dân đứng dậy là giới trí thức đứng dậy trước
để lãnh đạo quần chúng. Bà Niemcova, giáo sư đại học và chồng, một bác
sĩ tâm thần là hai trong 240 nhân vật ký bản Hiến chương 77 mở màn cuộc cách
mạng nhung tại Tiệp Khắc nói rằng lời nói và những bài viết chỉ trích độc tài dù
nặng nề và đúng trọng tâm bao nhiêu cũng không làm cho người dân đứng dậy. Họ cần được lãnh đạo bởi giới trí thức. Và giới trí thức
phải sẵn sàng vào tù ra khám, mất công ăn việc làm và
địa vị xã hội. Bản thân bà Dana Niemcova sau khi ký Hiến chương được cho nghỉ
dạy và biến thành một lao công cho chính ngôi trường
đại học nơi bà giảng dạy. Bà Niemcova và các thành phần khác
ký Hiến chương đã nêu gương hy sinh cho một thế hệ người trẻ Tiệp Khắc xuống đường
tiến hành cuộc cách mạng nhung. Cách mạng nhung, nhưng không có nghĩa không có nước mắt và máu âm thầm chảy.
Một lần nữa, cuộc đấu tranh cho dân chủ không
thể tiến hành bằng nước bọt. Phải thực tiển đấu tranh. Và cũng không nhất thiết phải bạo động. Đấu
tranh bất bạo động trong thế giới tin học và toàn cầu hóa hiện nay còn hiệu
nghiệm hơn cả đấu tranh bạo động. Bạo động giúp kẻ cầm
quyền bạo ngược có cớ dùng bạo lực. Bất bạo động trái
lại làm cho kẻ mạnh lúng túng trước lương tri của thế giới và tối hậu họ phải khuất
phục lẽ phải.
Người trí thức trên thế giới từ Trung á, Trung
đông, Nam Mỹ, Á châu, Trung quốc, Việt 
| Trần Bình Nam | http://www.vnet.org/tbn |