Diện và Điểm

Trần Bình Nam

Sau 9 vòng hội nghị và 3 năm thương thuyết khởi đầu từ tháng 5 năm 1996, Hoa Kỳ và Việt Nam vừa thỏa thuận ký một thỏa ước mậu dịch (trade agreement), qua đó ngoài việc Hoa Kỳ và Việt Nam giảm thuế quan đánh vào hàng hóa của nước này nhập cảng vào nước kia ở mức thấp nhất, còn có những thỏa thuận quan trọng khác như các cơ sở kinh doanh của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ được hưởng một qui chế giống như các cơ sở kinh doanh của người Việt Nam; Hoa Kỳ có quyền cung cấp dịch vụ ngân hàng, truyền tin, bảo hiểm và kế toán không bị hạn chế; và Việt Nam bảo đảm tác quyền và quyền sáng chế của Hoa Kỳ. Thỏa ước mậu dịch này trước đây được gọi bằng một danh từ không chính xác là "qui chế tối huệ quốc" (most favored nation status) trên thực tế là một thỏa ước "bình thường hóa quan hệ mậu dịch" giữa Hoa Kỳ và Việt Nam (normal trade relations). Hoa Kỳ có quan hệ mậu dịch này đối với tất cả các quốc gia trên thế giới ngoại trừ Việt Nam, Cuba và Bắc Hàn.

Thỏa ước mậu dịch vừa được sơ thự hôm 25/7/99 tại Hà Nội giữa đại diện mậu dịch Hoa Kỳ Richard Fisher và bộ trưởng ngọai thương Việt Nam Trương Đình Tuyên sẽ được chính thức ký kết bởi hai nhà nước sau khi các luật sư và chuyên viên hai bên nghiên cứu và làm các điều chỉnh cần thiết trên hai bản văn Việt và Anh Ngữ. Sau đó hai quốc hội Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ phê chuẩn bằng phiếu đa số tương đối trước khi có hiệu lực.

Người ta không chờ đợi một trở ngại nào tại quốc hội Việt Nam. Đảng đã quyết định thì quốc hội sẽ đóng dấu. Tại quốc hội Hoa Kỳ một số vấn đề nguyên tắc sẽ được nêu ra như tình trạng nhân quyền tại Việt Nam, Hoa Kỳ có lợi gì khi ký thỏa ước v.v... nhưng cũng sẽ không làm thay đổi quyết định phê chuẩn của quốc hội. Mọi thủ tục được dự trù hoàn tất trước cuối năm 1999 và thỏa ước sẽ được thi hành từ đầu năm 2000. Cả hai đảng Cộng hòa và Dân chủ đều không muốn vấn đề Việt Nam thành một đề tài, dù nhỏ, trong cuộc bầu cử tổng thống và tân quốc hội cuối năm 2000.

Cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại từng bày tỏ sự bất đồng ý của mình đối với sự bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Chống bỏ cấm vận tháng 2 năm 1994, chống thiết lập quan hệ ngọai giao tháng 7 năm 1995, và lúc này cộng đồng sẽ chống sự phê chuẩn thỏa ước của quốc hội Hoa Kỳ.

Lần này cộng đồng Việt Nam hải ngoại sẽ gặp nhiều khó khăn hơn vì ý kiến phân tán trước biến chuyển chính trị này. Vấn đề là, trong 3 năm nay Việt Nam chần chừ không chịu ký thỏa ước bình thường hóa mậu dịch với những điều kiện do Hoa Kỳ đưa ra trong bản sơ thảo Hoa Kỳ gởi đến chính quyền Việt Nam trong tháng 5 năm 1996, nay đứng trước tình trạng kinh tế suy yếu và áp lực của phương Bắc trên chủ quyền đất đai càng lúc càng nặng, đảng cộng sản Việt Nam đã ký thỏa ước như là một nhượng bộ. Nhượng bộ để duy trì quyền lãnh đạo mà họ đã tiếm đoạt bằng vũ lực, nhưng họ biết bản thỏa ước khi được thi hành sẽ mau chóng đẩy Việt Nam sâu hơn vào con đường thị trường, và theo sau con đường thị trường là tự do và dân chủ làm suy yếu quyền hành của đảng dù đảng cộng sản muốn hay không. Khi hàng hóa của Hoa Kỳ ào ạt nhập vào Việt Nam với giá rẻ, các đại cơ sở quốc doanh làm nền móng cho chế độ sẽ phải giải tư để chạy đua với tiêu chuẩn sản xuất quốc tế. Vậy tại sao lại chống? Đó là ý kiến của một số người.

Nhưng cộng đồng Việt Nam tại hải ngọai đã chống hai vế đầu của tiến trình bình thường hóa (cấm vận và thiết lập quan hệ ngoại giao) thì về mặt thực tế cũng như tâm lý cộng đồng Việt Nam không thể ngồi yên không lên tiếng khi quốc hội Hoa Kỳ thảo luận việc phê chuẩn.

Nhưng nếu vẫn theo lề lối cũ nghĩa là chống để mà chống thì sự chống của cộng đồng sẽ chẳng có một tác dụng gì lâu dài. Trong 20 năm qua cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại đã không ngừng đấu tranh đòi giải thể chế độ độc tài đảng trị, thiết lập tự do và dân chủ tại Việt Nam nhưng kết quả quá ít so với nỗ lực đã tung ra vì chúng ta đánh và chống lung tung không có chính sách. Chúng ta đánh rất nhiều diện nhưng không có điểm. Do đó chúng ta không làm đảng cộng sản nao núng, mặc khác các thế lực quốc tế bạn của chúng ta cũng không hiểu chúng ta muốn gì để ủng hộ hay không ủng hộ.

Đã đến lúc cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại cần đồng ý với nhau về một "điểm" đấu tranh để biến nỗ lực của chúng ta thành cái thế đòn bẩy trong tiến trình dân chủ hóa Việt Nam. Không nhất thiết phải có một tiếng nói thống nhất đại diện cho cộng đồng hải ngọai vì mong ước này chỉ là ảo tưởng. Có thể có nhiều cộng đồng, mỗi cộng đồng có một chương trình đấu tranh khác nhau tùy nhu cầu địa phương và chính sách của chính quyền tại chỗ, nhưng cần có một đòi hỏi chung, một "điểm" đơn giản, dễ hiểu, hợp lý với chúng ta, với các quốc gia tự do trên thế giới, với đồng bào trong nước mà khi được thực hiện sẽ mở đầu một tiến trình dân chủ hóa Việt Nam không làm thiệt thòi cho bất cứ ai, kẻ thắng và người thua.

Có một viên đá lớn cản đường dân chủ hóa Việt Nam, đó là điều 4 của bản Hiến pháp Việt Nam hiện hành được tu chính và ban hành năm 1992 qui định đảng cộng sản Việt Nam là đảng lãnh đạo mọi mặt sinh hoạt của quốc gia. Hiến pháp là luật tối thượng của một nước. Hiến pháp đã nói như vậy thì đòi thực thi nhân quyền, đòi bầu cử tự do chỉ là một sự lạy lục đảng cộng sản ban bố các điều trên như một sự bố thí. Nếu vì nhu cầu hay áp lực quốc tế đảng cộng sản ban hành rồi sau đó dựa vào điều 4 Hiến pháp để thu hồi lại thì cũng chẳng có ai có lý gì để bắt bẻ.

"Điểm" của cuộc đấu tranh phải là hủy bỏ điều 4 Hiến pháp và bao quanh nó bằng nhiều "diện" như nhân quyền, bầu cử tự do, tự do tín ngưỡng, tự do báo chí, trả tự do cho tù nhân chính trị, chống phê chuẩn thỏa ước bình thường hóa quan hệ mậu dịch v.v... Có quốc gia nào trên thế giới không đồng ý với đòi hỏi bỏ điều 4 Hiến pháp rất hợp lý của chúng ta? Và ngay cả đảng cộng sản họ lập luận thế nào để mọi người có thể nghe được vì sao họ không chịu và không thể hủy bỏ điều 4 Hiến pháp? Điều 4 Hiến pháp thực chất là một sự tiếm quyền của dân bằng thủ thuật chính trị sau khi đã chiếm quyền bằng vũ lực, và đảng cộng sản Việt đang kiểm soát quốc hội, cơ cấu có thẩm quyền tu chính Hiến pháp.

Đây là thời điểm để những người có trách nhiệm dẫn dắt quần chúng hải ngoại trong cuộc đấu tranh giành lại tự do và dân chủ cho nhân dân trong nước duyệt lại sách lược đấu tranh. Và cũng là thời điểm then chốt để những người đang cầm quyền tại Việt Nam thấy rằng sức đẩy của kinh tế toàn cầu trong thời đại tin học này sẽ không chờ đợi họ lâu hơn nữa. Lối ra an toàn trong ổn định đồng thời kịp đưa Việt Nam vào trào lưu dân chủ và kinh tế mới (new economy) của thế giới không gì khác hơn là hủy bỏ điều 4 Hiến pháp. (July 1999)


Trần Bình Nam

http://www.vnet.org/tbn