Đọc “Thiên Hùng Ca Dân Tộc Việt”
của Hà
Thúc Như Hỷ
Trần Bình Nam
“Thiên Hùng Ca Dân tộc Việt” là một tập thơ 180 trang vẽ lại lịch
sử Việt Nam từ thời lập quốc, qua các
giai đoạn đấu tranh giữ nước, cho đến những dự phóng của một nước Việt Nam
tương lai sau khi chế độ cộng sản cáo chung của một y sĩ, bác sĩ Hà Thúc Như Hỷ
(E-mail: HaThuc@hotmail.com).
Tác giả thường được bạn bè gần xa tặng cho danh hiệu là đa sĩ, vì ngoài
nghề y sĩ, ông còn là một chiến sĩ (sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa), võ sĩ
(đệ ngũ đẳng huyền đai), họa sĩ, một nhạc sĩ, một văn sĩ và như tác phẩm “Thiên
Hùng Ca Dân Tộc Việt” này chứng tỏ, là một thi sĩ. Độc giả sẽ có cơ hội thưởng
thức mỗi thứ tài của ông một ít bàng bạc trong tác phẩm này, nổi bật nhất là 4
phụ bản in màu do chính ông vẽ. (Nhà xuất bản Khôi Việt 14922 Moran St. #B,
Westminster, CA. 92683).
Thiên Hùng Ca Dân Tộc Việt gồm 4 chương: Chương 1, Thời Mở Nước
gồm 13 trang, lược nhanh từ thời Hùng Vương, qua các giai đoạn chống xâm lăng
và nội chiến cho đến khi nhà Nguyễn thống nhất sơn hà năm 1802. Chương 2, Thời
Giữ Nước gồm 34 trang tác giả đi qua công cuộc chống Pháp từ thời Cần
Vương, Yên Báy, cuộc chiến đấu duy trì tự do của hai nền Đệ nhất và Đệ nhị Cộng
Hòa, sự sụp đổ 30 tháng 4 và cuộc đấu
tranh giữ nước tiếp tục tại hải ngoại. Chương 3, Thời Dựng Nước, là phần
chính của tác phẩm gồm 102 trang, và sau cùng là Chương 4, Khúc Hoan Ca.
Đọc xong Thiên Hùng Ca Dân Tộc Việt, nhất là phần Dựng Nước tôi có cảm
tưởng mình vừa tìm được một cái gì đang đi tìm. Các tổ chức chính trị hải ngoại
đều có chương trình xây dựng lại đất nước hoặc dưới những quan niệm chính trị
được ghi trong từng bản cương lĩnh, hoặc qua các chương trình chi tiết sau khi
nền dân chủ được tái thiết lập tại Việt Nam, và Thiên Hùng Ca Dân Tộc Việt đã
sắp xếp lại một cách có hệ thống đường ngang lối dọc trong các bản cương lĩnh
chính trị đó. Với Thiên Hùng Ca Dân Tộc Việt những người đấu tranh còn ôm ấp
niềm tin nồng cháy vào tương lai của xứ sở như có được một cẩm nang kiến thiết
trong tay.
Cảm hứng nào đã giúp tác giả truyền trong tác phẩm sự nồng cháy
hừng hực lửa? Thơ văn vốn có lửa của nó trong tứ thơ và trong ý thơ, nhưng hình
như sự cuồng nhiệt của tình yêu quê hương mãnh liệt hơn cả tình yêu đã là động
năng sáng tạo của tác giả làm cho những vần thơ của Thiên Hùng Ca Dân Tộc Việt
đã vượt qua sự dùng dằng ràng buộc của thơ, của tư tưởng và triết học để đi
thẳng vào trái tim của độc giả.
Tự giải tỏa khỏi những ràng buộc đó tác giả qua những vần thơ đã
trình bày một chương trình dựng nước (chương 3) không thiếu sót một lĩnh
vực nào. Trước hết là bài học chiến tranh, xây dựng con người, vấn đề chủ
thuyết, lãnh đạo, sự vận hành của dân chủ, nhu cầu đoàn kết, vấn đề tôn
giáo, tổ chức kinh tế, giáo dục, y tế,
văn hóa, và sự đóng góp của người Việt hải ngoại.
Bài học chiến tranh. Trong chiến tranh giữ nước tác giả căn dặn: hậu phương là chính.
Trong nhà có yên ổn, lính ngoài trận mới hăng:
Nếu
hậu phương bất ổn
Hậu
phương càng hoang mang
Chiến
trường càng thương tổn” (trang 71)
Về xây dựng con người: cần phá bức rào dị biệt trường phái, cần biến cải tâm thức:
“Việc
đầu tiên phải đồng tâm phá bỏ
...............................................................
Do dị
biệt giữa nhiều trường phái
.........................................................
Vì
đất nước chỉ cần
Những con tim và khối óc
Những tâm thức mở rộng
.........................................
Và
cùng chung một niềm kiêu hãnh
Để
làm tổ quốc vinh quang (trang 80)
Về chủ thuyết. Tác giả chủ trương không cần chủ thuyết và không thể nhân danh thế
hệ tới để hy sinh thế hệ này. Hạnh phúc hiện tại của người dân là chính:
“Không thể có một chủ thuyết vĩ đại
Không thể có một chủ thuyết tuyệt
vời
......................................................
Khi
thế giới không ngừng thay đổi (trang 81)
.......................................................
Không thể vì những viễn ảnh xa xôi
Mà hy
sinh thế hệ này cho thế hệ tới
Không thể nhân danh
Bất
cứ điều gì cho tương lai nhân loại
Để ra
tay tay hủy diệt kiếp người
...............................................
Chỉ
có một điều đáng nói
Là
hạnh phúc con người (trang 82)
Mỗi
người dân phải có một đời
Sống
hạnh phúc và no cơm ấm áo
Không lo âu và hồn đầy sáng tạo
............................................
Khi
xây dựng cuộc đời
Cho
con người Việt Nam
Xin
đừng biến cá nhân
Thành
người máy người gỗ
Khi
góp gió bốn phương
Thành
một hình hài vá víu (trang 83)
Về lãnh tụ: Đừng chờ để suy tôn. Người lãnh đạo sẽ xuất hiện qua tài điều hợp
chỉ huy trong sinh hoạt dân chủ đa nguyên. Chính yếu là người biết khai dụng
mọi khối óc và tài ba.
“Đừng trông chờ minh chủ
...........................................
Thấu
triệt hết mọi vấn đề nhân loại
...........................................
Để
một mình lèo lái chỉ huy
..............................................
Phải
cần nhiều khối óc góp lại
................................................
Trong
chiều hướng dân chủ đa nguyên (trang 85)
Về dân chủ. Tác giả nhấn mạnh một điểm độc đáo, là dân chủ tự nó không phải
là chiếc đũa thần. Nhân danh dân chủ cũng có thể dẫn tới độc tài nếu không có
đối lập chính trị.
“Dân
chủ sẽ không còn là tuyệt hảo
Dù
hôm nay đang ở đỉnh cao
Dân
chủ vẫn chưa vào quỹ đạo
Tạo
quân bình cho xã hội loài người (trang 94)
............................................
Khi
bị lạm dụng tối đa
Dân
chủ sẽ là một trở ngại (trang 94)
........................................
Cần ý
thức rõ ràng
Dân
chủ và chức năng đối lập
Đối
lập không phải cố chấp
Không đứng riêng
Làm
một khối nội thù
Không đấu tranh
Vì
quyền lợi riêng tư (trang 95)
............................................
Và
nguyên tắc luân phiên lãnh đạo (trang 96)
Vấn đề đoàn kết. Đoàn kết nếu không phát sinh từ ý chí hợp quần, chấp nhận tuân
hành một luật lệ chung để hành động thì chỉ là một danh từ suông:
“Đoàn kết không là danh xưng
là
khẩu hiệu, là bích chương kêu gọi
.................................................
Đoàn
kết tự trong tim là điều mong mỏi (trang 98)
...........................................
Là
kết hợp của một khối người
Để
hoàn thành mục tiêu công tác (trang 99)
...............................................
Là
tuyệt đối tuân luật lệ chung
...............................................
Cùng
ý thức và cùng hành động
Cùng
trách nhiệm và cùng quyền lợi (trang 100)
Chính sách tôn giáo: Bình đẳng mọi tôn giáo là chìa khóa
Trên
một mảnh đất có nhiều đức tin
Nguyên tắc bình đẳng là điều tiên
quyết
Vô kỳ
thị là sách lược giải hòa (trang 102)
Chính sách kinh tế: tác giả chủ trương hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, đào tạo kinh
tế gia, khai thác tài nguyên, mở mang giao thông (hai xa lộ bắc nam, một theo ven biển, một dọc Trường Sơn, nối với
nhau bằng những xa lộ băng ngang nối kết thị thành, miền cao với vùng biển)
khuếch trương du lịch, sản xuất là chính. Nhưng trên tất cả là một nền kinh tế
tự túc với một nền canh nông cơ giới hóa.
Khi
nói đến vấn đề kinh tế
Phải
đề cập đến hai điều quan hệ
Phần
tài nguyên và phần trí tuệ
Cần
trí tuệ để khai thác tài nguyên
Để
quản trị, để điều nghiên sách lược (trang 106)
.......................................................
Phải
xây dựng một nơi làm điểm tựa
Đặt
trọng tâm vào kinh tế tự túc (trang 109)
...............................................
Phải
cơ khí hóa hoàn toàn nông nghiệp
Làm
nghề nông đủ nuôi sống quốc gia (trang 109)
...................................................
Tự
túc không có nghĩa thu mình
Hay
đóng cửa với cộng đồng thế giới (trang 111)
........................................................
Tận
dụng những tài nguyên sẵn có
Áp
dụng những tiến bộ kỹ thuật
Để
phát triển ngành kinh tế sản xuất (trang 112) ........................................................
Khi
áp dụng kinh tế mậu dịch
Phải
khôn ngoan trong việc trao đổi
Không bán đi hàng tấn quặng mỏ
Để
đổi lấy cái búa cái kềm (trang 113)
..........................................................
Một
địa hạt hãy đang còn mới
................................................
Phát
huy ngành kinh tế truyền thông
Biến
đô thị thành trung tâm mãi dịch
Phát
triển mạnh mọi ngành du lịch (trang 115)
....................................................
Hãy
dựng thêm nhà thêm cửa
Thêm
nhiều thành phố
Trên
những đồi xanh
Cao
nguyên đất đỏ
....................................
Không chỉ có một Lâm Viên
mà có
trăm nghìn Đà Lạt (trang 117)
................................................
Hãy
mở thêm đường sá
.............................................
............................................
Những xa lộ xuyên ngang
Nối
cao nguyên đồng bằng duyên hải (trang 117)
Chính sách giáo dục: giáo dục nhắm thực dụng không từ chương. Học để làm, để phát minh
sáng tạo, không học vì chuộng bằng cấp. Phải cộng đồng hóa giáo dục nhất là
giáo dục đại học. Dành chương trình du học cho nhân tài.
Chú
trọng đến vấn đề thực dụng
Không phí phạm những gắng công đèn sách
Để ra
đời không biết phải làm gì (trang 120)
......................................................
Đại
học phải là nơi phát triển
Những chương trình nghiên cứu phát
minh
Những chương trình không cần đồ sộ
Ngoài
tầm tay của một quốc gia nhỏ bé
Mà là
những chương trình đa hiệu đa năng (trang 121)
..............................................
Tùy
nhu cầu địa phương Đại học được xây dựng
Dùng
mô thức những Đại học cộng đồng
Mở
rộng cửa cho mọi tầng lớp nhân dân (trang 122)
.................................................
Các
cấp Trung tiểu học phải cần canh tân
Mất
thì giờ vì học trình trì chậm (trang 123)
.........................................
Giáo
dục phải đồng đều phát triển
Từ
thành thị cho đến thôn quê (trang 124)
.........................................
Phải
tận dụng truyền thông điện toán
Đến
các miền hẻo lánh xa xôi (trang 124)
...............................................
Không độc quyền du học cho mỗi ai
Chỉ
dành cho những nhân tài lỗi lạc
Hẹn
ngày về ngay từ buổi lên đường (trang 126)
Về y tế: Ưu tiên y khoa phòng ngừa. Cần chương trình chống bệnh tật trước
khi lo chuyện sống lâu. Chương trình thực dụng để huấn luyện nhân viên y tế.
Mang y tế về nông thôn. Chú trọng Đông y.
Chống bệnh tật là quan trọng hàng
đầu
Khi
cuộc sống trở nên sang giàu
Sống
khỏe sống lâu là điều nghĩ tới (trang 131)
.......................................................
Giáo
dục y tế phải sớm thực hiện
Giúp
người dân thấu hiểu tận tường
Những kiến thức y khoa thông thường
Để tự
tránh tai ương bệnh tật (trang 134)
...............................................
Đem y
tế đến tạn miền thôn dã
Bằng
kế sách đãi ngộ chuyên viên (trang 136)
..............................................
Trong
sứ mạng tiên phong
Cần
phát huy tinh thần khai phóng
Theo
chân người nhưng không trói buộc
............................................
Đóng
góp những bông hoa
Vào
khu vườn y khoa nhân loại
Hiển
dương y đạo (trang 139)
................................................
Y học
Đông phương
Một
thời ngự trị
Còn
ẩn tàng nhiều tuyệt kỷ vô song (trang 141)
Về văn hóa: bảo tồn văn hóa là viên gạch góc trong toàn bộ chương trình xây
dựng quốc gia.
Văn
hiến là giá trị tinh thần
Văn
hóa là nét hồn dân tộc
Cần
bảo trọng và đừng đánh mất (trang 144)
.........................................
Phải
dựng lại
Nền
văn minh Lạc Việt (trang 147)
.........................................
Phải
dựng lại
Những nét huy hoàng tuyệt tác
Cung
điện nguy nga đền đài lăng tẩm
Đứng
ngang hàng thế giới kỳ quan (trang 147)
.......................................................
Phải
dựng lại
Những nét sống động
Của
đồng bằng bát ngát Cửu Long (trang 149)
Vai trò người Việt hải ngoại:
“Một khối người chọn bước tha phương
Đang
thu góp tinh hoa nhân loại
Chờ
ngày về xây dựng lại quê hương trang (trang 162)
Và tác giả căn dặn trước:
Người Việt hải ngoại
Trở
về từ chốn xa ngàn dặm
Cũng
cần sửa soạn lại hành trang
Cần
biết sẽ mang gì về quê hương
Từ
các đô thị phố phường
Của
các quốc gia hùng cường trên thế giới
Nhưng không phải là tất cả
Cuộc
sống mù lòa vì vật chất (trang 158)
Qua những vần thơ trong sáng, mạch lạc như văn xuôi tác giả đã
trình bày một kế hoạch hưng quốc gom góp được cái tinh túy nhất trong cương
lĩnh của các tổ chức chính trị.
Dùng thi ca để diễn đạt tư tưởng, nhất là tư tưởng chính trị, đòi
hỏi hai đặc tính: thấu triệt vấn đề trình bày và nắm vững chữ nghĩa. Tác giả đã
vượt lên những khó khăn này và đã thành công thu gọn trong 2,095 câu thơ một
tập sử Việt Nam từ thời lập quốc, qua
những cuộc đấu tranh để bảo toàn cá tính dân tộc Việt và sau cùng là một kế
hoạch hưng quốc giá trị. Tác giả có biệt tài dùng thi ca diễn tả những tư tưởng
một cách súc tích và cô đọng. Hình như mỗi chữ, mỗi ý đều được tác giả thận
trọng cân nhắc.
Mẹ
Việt Nam ơi!
Những đứa con của mẹ
Đang trở về dưng lại quê
hương (trang 60)
Ta như nghe tiếng bước chân của từng đoàn người đang rầm
rập bước.
Hoặc:
Tổ
quốc không chỉ là núi là sông
mà là
mãnh đất
trong lòng
Mang
theo đến tận cùng cuộc sống (trang 57)
Ôi mãnh đất trong
lòng , làm sao dứt ra được!
Sự đơn giản của lời thơ và sự súc tích của tư tưởng cho thấy tác
giả đã trăn trở nhiều trước khi biến thành lời trên giấy.
Vấn nạn của Việt Nam hôm nay là chủ nghĩa và chính quyền cộng sản,
và tư tưởng của thi phẩm Thiên Hùng Ca Dân Tộc Việt là tư tưởng chống chủ nghĩa
cộng sản, nhưng tác giả không chống vì hận thù, vì chủ trương của thi phẩm là
“Sẽ xóa! Sẽ xóa tất cả!
Những tị hiềm, thù hận, sân si
Và quá khứ đau buồn
Không còn khơi tuôn sầu hận (trang 158)
Hơn nữa đối với tác giả chuyện cộng sản không còn gì để phê phán:
“Một
chủ thuyết
Chỉ tuyệt vời đểå làm cộng sản
Nhưng triệt tiêu quyền căn bản làm
người (trang 31)
Và tuyệt vời như thế nào sự sụp đổ của Liên bang Xô viết đã
chứng tỏ.
Một chế độ như thế sẽ phải sụp đổ.Và khúc hoan ca có ngày chúng ta
cùng hát:
“Tin
vui về cuồn cuộn Cửu Long (trang 170)
.....................................................
Tin
vui về
Thắm
lại Biển đông (trang 171)
....................................................
Tin
vui về
Trường sơn bồi hồi xúc động (trang
171)
......................................................
Phục
hồi mạch sống non sông (trang 171)
...................................................
Tin
vui về
Từng
đoàn người lũ lượt
Kéo
nhau đi thăm lại thành xưa
Bay
phất phới giữa trời xuân tươi mới (trang 173)
................................................
Tất
cả! Tất cả!
Và
chỉ một lần thôi
Rồi
cùng nắm tay nhau
Hướng thẳng tương lai tiến tới
(trang 174)
Và niềm tin sắt đá đó kết tinh nơi tác giả qua quá trình Mở
Nước cam go và Giũ Nước oai hùng của dân tộc mà tác giả trình bày
trong phần đầu của tác phẩm.
Mở nước:
“Từ
Đông phương đẹp hơn huyền thoại
.................................................................
Dân
tộc tôi đã dứng dậy chuyển mình
Bước
chân đi xô ngàn bạt núi
................................................................
Tiến
thẳng về Nam
Thênh
thang bờ cỏi
................................................................
Vời
vợi niềm tin (trang 11)
Giữ nước:
“Dân
nước tôi
Trai
gái một lòng
Thề
gìn giữ non sông gấm vóc (trang 27)
..................................................
Mảnh
đất thiêng
Từng
hứng chịu cuồng phong
Của
tham vọng của ý đồ đế quốc (trang 27)
.................................................
Hết
giặc từ phương Bắc
Đến
giặc từ phương Tây
Đế
quốc, thực dân dẫm mạnh gót giày (trang 28)
Nhưng:
“Sẽ không còn
xa lắm
Ngày quang phục Việt Nam (trang 60)
..............................................
Mẹ Việt Nam ơi!
Những đứa con của mẹ
Từ
khắp nơi trên thế giới
Đang trở về dựng quê hương (trang 60)
Với công phu tuyệt vời tác giả đã không tránh được một số khuyết
điểm làm cho tác phẩm mất tính trường tồn với thời gian. Trong phần “Thời Giữ
Nước” (trang 27 đến trang 60) tác giả ghi những biến chuyển lịch sử trong 30
năm qua với xúc động của người đang sống và chứng kiến lịch sử, và đã để cho
quan điểm chính trị của mình chế ngự. Ghi lại lịch sử cần đứng xa ra để thấy
cấu trúc của nó khác hơn là một mớ bòng bong của những trận đánh, những cuộc
chạy loạn, những cuộc trấn áp, những tấm gương anh hùng. Cuộc chiến Việt Nam
(1954-75) dưới nhãn quan lịch sử chỉ là sản phẩm của trận chiến tranh lạnh
(1945-1989) trong đó ông Hồ Chí Minh, ông Ngô Đình Diệm và ông Nguyễn Văn Thiệu
chỉ là nạn nhân như cả dân tộc Việt Nam là nạn nhân. Không ông nào đáng khen
cả, vì không ông nào chiến đấu cho vinh quang của dân tộc như cuộc chiến đấu
của quân dân đời Trần.
Tác giả đặt nhiều hy vọng vào khối người Việt hải ngoại trong công
tác giữ nước hậu 1975:
“Giữa
tan tác điêu linh
Trên
khắp địa cầu
Trong
mọi thành phố
Giữ
trong tay lá cờ vàng ba sọc đỏ (trang 58)
Nhưng đây là một hy vọng có nhiều bất trắc. Khả năng của người
Việt hải ngoại vô biên, thế nhưng sau
26 năm chúng ta chưa tạo thành một sức mạnh một tiếng nói chung để tạo một áp
lực chính trị nào đó lên đảng cộng sản Việt Nam. Người Do Thái đã làm được,
người Trung Hoa làm được, nhưng tại sao chúng ta không làm được?
Qua tác phẩm thi ca Thiên Hùng Ca Dân Tộc Việt tác giả chưa đặt
câu hỏi này, và do đó không hiến cho độc giả một giải pháp.
Trần
Bình Nam
Trần Bình Nam |
http://www.vnet.org/tbn |