Đọc "Chuyện Kể năm 2000"
của Bùi Ngọc Tấn
Trần Bình Nam 
"Chuyện
Kể
Năm 2000" của
Bùi Ngọc
Tấn
gồm
2 tập,
dày khoảng
1000 trang in cỡ
chữ
trung bình do Nhà xuất
bản
Thanh Niên ở
Hà nội
in và xuất
bản.
Sách in xong nộp
lưu
chiếu
khoảng
tháng 2/2000 chưa
bán ra thị
trường
đã bị
nhà nước
ra lệnh
tịch
thu. Nội
dung cuốn
sách đã được
chuyển
qua Liên bang Nga. Sinh viên Việt
scan lại và chuyển
cho độc
giả
Việt
khắp
thế
giới.
Ít nhất
có hai nhà xuất
bản,
nhà xuất
bản
Văn Nghệ
và Tự
Lực
ở
Nam California Hoa Kỳ đã cho in thành sách. Nhà xuất bản Tự Lực cho biết một phần tiền bán sách sẽ dành cho tác giả, và khuyến khích độc giả giúp đỡ tác giả và những người đang gặp khó khăn với chính quyền trong nước vì đã tạo điều kiện cho cuốn sách ra đời. 
Từ
năm 1986 khi tổng
bí thư
Nguyễn
Văn Linh cởi
trói văn nghệ,
nhiều
sách do các nhà văn trong nước
viết
được
gởi
ra hải
ngoại
như
các tác phẩm
của
nhà văn Nguyễn
Huy Thiệp,
Dương
Thu Hương
... chưa
có một
cuốn
nào gây dư
luận
sôi nổi
như
cuốn
“Chuyện Kể Năm 2000”.
Bùi Ngọc
Tấn
viết
chuyện
ký về
nhà văn Nguyễn
Văn Tuấn
(chính là tác giả)
bị
tù gần
5 năm, từ
tháng 11/1968 cho đến
tháng 4/1973. Tập
1 ghi lại
chuyện
tù từ
các trại
giam trại
76 ở
Hải
Phòng, 75 ở
Hà Nội
đến
các trại
tù Q.N, VQ. Tập
2 ghi lại
những
khó khăn nhà văn Nguyễn
Văn Tuấn
gặp
phải
sau khi ra tù. Những
khó khăn kéo dài triền
miên từ
năm 1973 cho đến
năm 1990. Ông bắt
đầu
viết
khi khối
Liên Xô vừa
sụp
đổ.
Ông nghĩ đã đến
lúc có thể
ghi lại
những
lỗi
lầm
của
thế
kỷ
và chiêm nghiệm
của
bản
thân lại
cho mai sau. 
Ông viết:
"Thập
niên thứ
tư
(ông ra tù năm 39 tuổi):
Dưới
đáy. Cố
ngoi lên để
khỏi
bị
nhận
chìm dưới
đáy. Đấu
tranh đòi hưởng
công bình, đòi hưởng
luật
pháp. Thập
niên thứ
năm: chiêm nghiệm.
Xác nhận
thực
tại
mình bị
tiêu diệt.
Hiểu.
Thập
niên thứ
sáu ... trò chuyện
với
vô cùng." 
Ông trò chuyện
với
vô cùng qua những
trang giấy
trắng.
Ông miệt
mài viết
trong 15 tháng liền,
kết
thúc bản
trường
thiên ký sự
cuối
năm 1991. Không ai biết
tại
sao tác giả
ngâm bản
thảo
suốt
8 năm cho đến
tháng 8 năm 1998 mới
tìm cách cho cuốn
sách ra đời
một
cách công khai. Có lẽ
nhà văn Bùi Ngọc
Tấn
chờ
chế
độ
đã làm cho cuộc
đời
ông bầm
dập
cáo chung, hay không còn chờ
được
nữa,
hay nghĩ chế
độ
đã đủ
cởi
mở
để
nghe những
lời
ông nói. 
Có thể
chế
độ
đã đủ
cởi
mở
hay có những
khe hở
tế
nhị
để
cuốn
sách ông qua lọt
các thủ
tục
kiểm
duyệt,
nhưng
sau cùng những
người
nắm
quyền
lực
tối
thượng
vẫn
còn lo sợ
không cho cuốn
sách ông được
phổ
biến.
Nhưng
có gì ngăn cản
được
thông tin trong thời
đại
tin học.
Càng cấm
nó càng được
phổ
biến,
càng được
tìm đọc.
Nếu
đảng
cộng
sản
Việt
Nam không ngăn được
nhạc
Phạm
Duy đi vào quần
chúng như
mực
trên giấy
thấm
học
trò, thì đảng
cũng không ngăn được
những
tư
tưởng
bình dị
nhưng
lấp
lánh như
ánh sao sa được
chuyên chở
bởi
lời
văn nhẹ
nhàng, súc tích đầm
ấm
của
Bùi Ngọc
Tấn
đến
với
nhân dân. 
Ký sự
về
tù đày, nhưng
tù đày chỉ
là cái khung. Tác giả
dùng cái khung đó để
chi li đi vào phần
thâm kín nhất
của
tâm hồn
con người,
trình ra những
viên ngọc
óng ánh cho chúng ta những
giây phút thở
dài nhẹ
nhõm hay lo âu có khả
năng làm cháy lòng ta. Cái tệ
tàn, u uất,
xấu
xa nhất
nếu
được
vẽ
ra nguyên hình của
nó cũng là một
viên ngọc
quí của
văn học.
Ai quên được
triết
lý nói dối
và ăn cắp
của
Tuấn
trong tù như
một
hình thức
phản
kháng: "Vào tù hắn
đã học
được
hai điều:
ăn cắp
và nói dối.
Không ăn cắp
vẫn
sống
được
đấy.
Nhưng
khổ.
Và buồn
nữa.
Nếu
không có cái lo lắng
hồi
hộp
của
việc
ăn cắp
và bồng
của
ăn cắp
được
về
trại
thì buồn
lắm,
buồn
không chịu
nổi.
Sung sướng
biết
bao khi mình vẫn
lấy
cắp
và mang về
trại
được
tất
cả,
vượt
qua vòng kiểm
soát nghiêm ngặt
của
các ông quản
giáo. Ăn cắp
với
hắn
còn có nghĩa phản
kháng, tuy sự
phản
kháng đó hơi
nguy hiểm.
Nó dẫn
tới
kỷ
luật,
cùm xà lim, ăn cháo loãng." 
Những
điều
phi lý của
một
chế
độ
độc
tài toàn trị
văn chương
thế
giới
đã nói nhiều.
Nhưng
cái phi lý nhà văn Bùi Ngọc
Tấn
ghi lại
làm chúng ta choáng váng, nhức
nhối,
khó chịu.
Nhà văn Nguyễn
Văn Tuấn
bị
bắt
vì đã viết
cuốn
sách "Những
Tiếng
Động
Bị
Nhốt"
để
ca ngợi
những
chiến
sĩ thợ
hàn đêm ngày nằm
trườn
mình trong những
thùng phuy bé tí để
hàn thùng xăng cho nhu cầu
bộ
đội
Trường
Sơn.
Người
thợ
hàn nghe tiếng
tí tách của
ngọn
hồ
quang đầu
đũa hàn, mình với
mình, chịu
đựng
cam go nóng bức,
tiếng
động
bị
nhốt
trong thùng không chia xẻ
được
với
ai. Thế
nhưng,
ông Trần,
ông Lan trong bộ
máy công an cho rằng
Bùi Ngọc
Tấn
lách chữ
nghĩa để
xỏ
xiên đảng
bóp chết
tiếng
nói của
nhân dân. 
Đầu
năm 1972 sau 3 năm 8 tháng giam cầm Nguyễn
Văn Tuấn
được
đưa
từ
nhà tù QN về
trại
giam 75 ở
Hà Nội
để
làm thủ
tục
phóng thích. Ngày phóng thích, Ngọc vợ
Tuấn
được
mời
đến
sở
công an. Ông Lan, người
công an chấp
pháp từng
lấy
cung Nguyễn
Văn Tuấn
muốn
nhân dịp
này cho Tuấn
có cơ
hội
nhận
lỗi
"với
nhân dân" trước
mặt
những
người
đại
diện
đảng,
nhất
là trước
mặt
vợ
để
chứng
tỏ
uy quyền
của
đảng
và thỏa
mãn tự
ái của
ông. Trong hơn
3 năm giam cứu
ông Lan không khui ra được
một
lỗi
lầm
gì của
người
tù Nguyễn
Văn Tuấn.
Nhà văn Bùi Ngọc
Tấn
kể
lại:
"Hướng
về
Tuấn
như
hướng
về
một
thính giả
vô hình, ông Lan nói, trước
hết
anh phải
xác định
được
những
sai lầm
của
mình. Phải
nhận
thức
được
thiếu
sót của
bản
thân. Chúng tôi giam giữ
anh không ngoài mục
đích ấy."
Cảm
thấy
không có gì trắng
trợn
hơn,
gian dối
hơn,
đạo
đức
giả
hơn,
đểu
hơn,
Tuấn
buột
miệng
đáp: "Thưa
ông, cho đến
giờ
này tôi chưa
được
biết
tội
lỗi
của
tôi. Chưa
ai nói cho tôi biết
tôi có tội
gì." 
Người
sĩ quan công an chấp
pháp cười
nhạt
nói với
vợ
Tuấn,
"Đấy,
anh ấy
cứ
như
thế
đấy."
Sau đó Tuấn
được
chở
trở
lại
về
nhà tù Q.N trên chiếc
xe đít vuông có 4 buồng
giam của
Rumani viện
trợ,
rồi
chuyển
lên trại
VQ xa hơn,
hắc
ám hơn.
Đừng
đọc
Chuyện
Kể
Năm 2000 của
Bùi Ngọc
Tấn
như
một
cuốn
sách tố
cáo chế
độ
tù đày của
chế
độ
cộng
sản
Việt
Nam. Nhà văn Bùi Ngọc
Tấn
không có mục
đích tố
cáo chế
độ
tù đày, ông cũng không dùng cuốn
sách để
tố
cáo chế
độ
cộng
sản.
Cộng
sản
như
thế
nào ai cũng biết
rồi.
Stalin, Mao, Pol Pot, cuộc
đấu
tố
tại
miền
Bắc
Việt
Nam của
thập
niên 50 ... . Và tù đày : "nhất nhật
tại
tù thiên thu tại
ngoại"
đâu cũng vậy.
Những
khó khăn của
người
tù để
lập
lại
cuộc
đời
ở
quốc
gia nào cũng có. 
Nhà văn Bùi Ngọc
Tấn
dùng cái khung tù đày và những
năm phấn
đấu
sau khi ra khỏi
nhà tù để
ngoi lên mà sống
cho ra một
con người
để
minh họa
một
bức
tranh lớn
của
xã hội
Việt
nam dưới
một
chế
độ
không có tự
do. Khi quyền
lực
thu vào tay của
một
số
người,
vừa
làm công an, quan tòa và cai tù thì xã hội và con người
phải
sa đọa
đến
tầng
thấp
nhất
của
địa
ngục.
Địa
ngục
không chỉ
ở
trong nhà tù, địa
ngục
ở
mọi
nơi,
trong cơ
quan làm việc,
trong công xưởng,
nơi
hàng mậu
dịch,
trường
học,
trong tâm tư
của
người
chưa
bị
tù hay vừa
ở
tù ra, nơi
chỗ
kín đáo vợ
chồng
chăn gối
với
nhau. Nhà văn Bùi Ngọc
Tấn
viết:
Khi con người
"không còn một
nơi
nào đi đến
thì khủng
khiếp
thật.
Đó là địa
ngục
của
trần
gian. Ông không đặt
câu hỏi
cái gì cho phép cái địa
ngục
đó tồn
tại.
Nhưng
ai cũng biết:
vì tự
do là trái cấm.
Chỉ
có đảng
độc
quyền
tự
do, độc
quyền
tuyệt
đối,
độc
quyền
hiến
định.
Nhưng
Tuấn
không mất
tin tưởng
vào con người,
và đó là cái làm anh sống,
không chọn
cái chết
như
người
tù Ngụy
Như
Cần.
Có lần
Tuấn
thổ
lộ
với
Bình, một
người
bạn
chí thân: "Bình ơi!
Lòng chúng ta có bao giờ
không trong sáng. Có bao giờ
chúng ta không yêu mến
con người.
Có bao giờ
chúng ta căm ghét cuộc
đời
này..." 
Những
chiêm nghiệm
của
tác giả
được
vẽ
lại
bằng
một
lối
văn nhẹ
nhàng đầy
ắp
hình ảnh,
không hờn
oán. Trong suốt
1000 trang giấy,
trang nào cũng là một
bức
tranh nhỏ
mang tính sự
thật
phảng
phất
tâm hồn
bao dung của
tác giả,
ngay cả
những
cảnh
hung bạo
nhất.
Con người
còn tất
cả
những
nét đẹp
trong tác phẩm
của
ông. Xấu
chăng chỉ
là cái hệ
thống,
cái chế
độ
chính trị
hư
hỏng
làm con người
đi xuống,
đi xuống
mà không biết
mình đi xuống
như
ông Trần,
ông Lan ông Quảng
của
sở
công an, của
một
số
bạn
văn của
tác giả
trốn
tránh anh vì sợ
liên hệ
dù anh đã được
tự
do không có án, của
những
người
lối
xóm vốn
có thể
là những
người
tốt
bụng
trong khu chung cư
nơi
ông ở
trở
thành những
người
điểm
chỉ
báo cáo. 
Bên cạnh
đó, dù khó khăn, nghịch
cảnh
và đe dọa
bởi
tù đày vẫn
còn những
người
bạn
tốt
như
Giang, như
Dự,
già Đô, Bình, như
chị
Linh vợ
một
ông đại
úy đang chiến
đấu
trong B. Nếu
có những
người
không may như
Lượng,
đi tù vợ
ở
nhà không giữ
trọn
tình chung thủy
vẫn
còn những
người
như
Ngọc,
vợ
Tuấn,
biết
sống,
biết
yêu. "Nàng đau khổ
hiểu
rằng:
Cả
hắn
(Tuấn),
cả
nàng không có cách gì thoát khỏi
cái mà cuộc
đời
đã dành cho hai người.
Nàng thương
chồng,
nàng thương
nàng. Nàng cam chịu."
Cũng như
vợ,
tác giả
cam chịu
trước
bóng đen đè ngập
xuống
cuộc
đời
anh, xuống
cuộc
đời
của
những
người
tù đã được
trả
tự
do. Từ
nhà tù nhỏ
trở
về
nhà tù lớn
họ
chỉ
có thể
trở
thành kẻ
cắp,
móc túi, hay chết
bờ
chết
bụi
không thân nhân giỏ
giọt
nước
mắt
cuối
cùng. 
Già Đô đăng lính Pháp đánh Đức trong thế
chiến
II, lập
gia đình với
một
phụ
nữ
Pháp, có một
cô con gái lai xinh đẹp,
vì hào quang của
Hồ
Chí Minh, vì tình yêu đất
nước
bỏ
vợ
con ở
lại
về
nước
tiếp
tay xây dựng
quê hương,
phục
vụ
"cách mạng",
thấy
cảnh
chướng
tai gai mắt
nói lời
bất
mãn bị
tù. Ra tù không nơi
nương
tựa,
già Đô làm đơn
xin trở
lại
nhà tù không được
chấp
nhận.
Lang thang ngủ
bờ
ngủ
bụi,
chịu
đựng
đói khát nắng
mưa,
phút sau cùng biết
không qua khỏi,
già đã chọn
một
ngôi đình để
... chết.
"Ngôi đình hoàn toàn hoang phế. Không một
dấu
vết
thờ
phượng
.... Thật
là một
chỗ
nằm
yên tĩnh lý tưởng
để
phiêu diêu. Chẳng
ai quấy
rầy
già. Phiêu diêu là một
cảm
giác sung sướng
lạ
thường.
Chẳng
nhớ
một
điều
gì, chỉ
nhớ
mình đang tan đi và đang bay ... " 
Ngụy
Như
Cần,
người
tù lâu năm nhất
của
trại
giam Q.N được
sự
kính nể
của
bạn
tù vì tư
cách và sự
chịu
đựng
của
anh đã treo cổ
tự
tử
sau khi trại
tù hoàn tất
thủ
tục
phóng thích. Anh nghĩ anh đã trả
đủ
nợ
đời,
không muốn
nhà tù lớn
ngoài kia làm khổ
anh và thân nhân anh. Anh chết
đi còn nuối
tiếc
chăng là thương
con cá chép trong hồ
anh nuôi và huấn
luyện
bao nhiêu năm mỗi
ngày chờ
nghe tiếng
anh gõ nổi
lên để
được
anh cho ăn và ve vuốt.
Hai năm sau khi ra tù trong một chuyến
đi buôn miền
mạn
ngược,
Tuấn
ghé lại
trại
giam phụ
QN thăm bạn
tù Ngụy
Như
Cần.
Cần
đã chết.
Tuấn
hỏi
một
ngườ
tù : "Còn con cá chép?" Anh tù kêu lên: "Con cá chép đem về bếp cán bộ rồi.", và giải thích: "Anh Cần chết.Tôi ra thay (ở trại phụ). Mấy hôm liền nó cứ nổi lên dọc bờ ao, rồi há mồm ngộp ngộp ở chỗ cầu rửa này. Trông như một thằng bé con. Ông quản giáo thấy nó. Ông rút súng bắn. Máu đỏ ao..." 
Giữa
bóng đêm tăm tối,
đôi khi tiếng
chửi
đổng
văng vẳng
đâu đó trong khu cư
xá giữa
những
người
có quyền
thế
với
nhau làm Tuấn
thấy
nhẹ
nhõm trong lòng. Bà Bường
vợ
một
ông công an, ganh tị
vì không có cơ
hội
làm ra tiền
bằng
ông Tăng, đảng
viên, cán bộ
thủ
công nghiệp
khu phố
đã chữi
ông Tăng: "nhân dân lao động
còn khổ
vì chúng mày. Bao nhiêu chiến
sĩ hy sinh ở
Trường
Sơn
để
chúng mày như
thế
à? Ăn ngập
mồm
ngập
miệng.
Bòn rút của
nhân dân. Dân chủ
mà lại
khốn
nạn."
Sao mà thấm
thía! Tuấn
nghe mà thấy
"vui lên một
chút trong những
năm tháng cùng cực"
Nhà văn Bùi Ngọc
Tấn
tuyên dương
tự
do. Qua Sáng một
thanh niên tuổi
mới
đôi mươi,
năm lần
vượt
ngục.
Những
người
cai tù coi cuộc
vượt
ngục
của
anh lần
thứ
nhất
và lần
thứ
hai như
là một
hành động
lãng mạn
nhớ
nhau của
con nít ăn chưa
no lo chưa
tới.
Lần
vượt
ngục
thứ
hai công an bắt
anh lại
khi anh đang ngồi
ăn cơm
với
bố
mẹ.
Lần
thứ
ba anh bị
cùm xà lim một
tháng, lần
thứ
tư
công an cho chó cắn
bươm
người
anh trước
khi nhốt
anh 2 tháng xà lim. Đến
lần
thứ
năm họ
mới
nhận
ra rằng
đối
với
Sáng "tự
do hay là chết"
không phải
là một
cụm
từ
cường
điệu
nói cho vui. Có lẽ
lần
này họ
cho anh được
mãn nguyện
và anh sẽ
mĩm cười
lấy
cái chết
đổi
tự
do. Tuấn
gặp
Sáng giữa
bầy
chó hung hãn và công an khi Sáng bị bắt
lại
sau cuộc
vượt
ngục
thứ
năm. 
Tự
do đối
với
Bùi Ngọc
Tấn
còn là tốc
độ,
dù là tốc
độ
10 cây số
một
giờ
của
chiếc
xe đạp
cọc
cạch
của
một
người
bạn
tù vừa
được
tự
do chở
anh trên khoảng
đường
mòn giữa
rừng
rậm
đến
cơ
quan lãnh giấy
tờ
xuất
trại.
Tuấn
lẩm
bẩm
nói thầm
với
vợ,
"Em, anh đang được
tự
do. Anh sẽ
về
với
em." Gần
5 năm Tuấn
mới
lại
được
ngồi
trên xe đạp
và bây giờ
Tuấn
mới
biết
thực
sự
thế
nào là tự
do, là phút háo hức
được
nhìn con và âu yếm
vợ.
Hẳn
là Tuấn
đang mĩm cười
nhớ
lại
những
phút ái ân với
Ngọc.
Hơn
một
năm trước
đây (*), tờ
Văn Học,
một
tạp
chí văn học
ở
hải
ngoại
do nhà văn Nguyễn
Mộng
Giác chủ
trương
có đặt
vấn
đề,
vì sao sau Truyện
Kiều
của
Nguyễn
Du Việt
Nam chưa
có đại
tác phẩm
nào có giá trị
văn chương
ở
tầm
vóc thế
giới,
và vấn
đề
đã tạo
nên một
cuộc
tranh luận
thú vị.
"Chuyện Kể Năm 2000" của Bùi Ngọc Tấn có phải là tác phẩm văn chương chờ đợi chăng?
Trần Bình Nam
April , 2000
(*) năm 1999