Hai Mươi Lăm Năm Nhìn Lại

Trần Bình Nam

Một vị chủ báo khả kính yêu cầu tôi viết cảm nghĩ khi nhìn lại 25 năm trôi qua từ khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Tôi bỗng lo sau khi nhận lời viết. Cơn xúc động của chiến tranh còn nóng hổi, vết thương của cuộc nội chiến còn đỏ ửng làm sao có thể nhìn lại một cách vô tư?

Sách Việt ngữ viết về cuộc chiến Việt Nam và hậu quả khá nhiều, trong nước ít nhất mươi cuốn, ngoài nước đến năm bảy chục cuốn. Hầu hết để trình bày cái hay cái giỏi và thành tích của tác giả dù thắng hay bại. Họa hoằn mới có vài tiếng nói yếu ớt phản ảnh nổi buồn của cuộc chiến tương tàn mà chúng ta ở cả hai bên đều là nạn nhân.

Về phía Mỹ trong 25 năm qua các học giả Mỹ viết hằng trăm cuốn sách nói về chiến tranh Việt Nam vừa để ghi lại sự kiện lịch sử vừa rút kinh nghiệm cho tương lai. Ông Douglas Pike, cũng là một chuyên viên về quan hệ Việt-Mỹ nhận xét rằng lúc này người Mỹ khó có một cái nhìn chính xác về sự lâm chiến của Hoa kỳ tại Việt Nam vì sự xúc động vẫn còn. Theo ông Pike ít nhất vài chục năm nữa may ra Hoa Kỳ mới có một kết luận đúng đắn về bài học Việt Nam. Ông Robert McNamara, nguyên bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, người điều hành cuộc chiến Việt Nam, sau 20 năm nhìn lại tưởng như đã thấy hết vấn đề vội vàng viết mấy cuốn sách để dạy mình và dạy người và mấy năm trước đây thực hiện một chuyến đi Hà Nội để thu thập dữ kiện nơi kẻ cựu thù chỉ làm cho vấn đề rối mù hơn. Không nói đến sự nóng vội và hời hợt của ông McNamara, thận trọng như ông Pike cũng còn quá lạc quan nếu nhớ rằng, cho đến hôm nay, 135 năm sau ngày cuộc nội chiến Hoa Kỳ chấm dứt, người Mỹ còn cãi cọ nhau vì trên tòa nhà hành pháp của tiểu bang South Carolina, tiểu bang đầu tiên quyết định tách ra khỏi Liên bang Hoa Kỳ đưa đến cuộc nội chiến, vẫn còn cắm ngọn cờ của phe miền Nam thất trận.

Nhưng đã nhận lời thì tôi phải cố nhìn lại, gắng nhìn lại 25 năm qua một cách thật trung thực dù bản thân tôi vẫn còn những xúc động, nói chi đến những xúc động của bạn bè thân thiết của tôi. Và tôi biết tôi không thể viết những gì tôi thấy khi nhìn lại mà không làm người Việt Nam ở bên này hay bên kia buồn lòng và chính bản thân tôi cũng nhức nhối xốn xang.

Hãy ngước nhìn lên bán đảo Triều Tiên. Tình hình Triều Tiên vào những thập niên 1950, 1960 giống tình hình Việt Nam. Hai nước chia đôi Quốc và Cộng, một bên được Mỹ ủng hộ, bên kia có khối Cộng sau lưng. Hà Nội và Bắc Triều Tiên đều quyết tâm thôn tính cả nước. Năm 1975 Hà nội chiếm miền Nam, trong khi nam Triều Tiên lúc này vẫn còn là một nước tự do và nhất là trở nên hùng mạnh, có một nền kinh tế làm cho Nhật Bản và thế giới Tây Phương phải kính nể và có thể tự bảo vệ không cần Hoa Kỳ trợ giúp.

Tại sao có sự khác biệt? Không phải tại Hoa kỳ bỏ rơi miền Nam như bao năm chúng ta vẫn tự an ủi. Hoa Kỳ có thể sai lầm về chiến lược chiến tranh nhưng Hoa kỳ không hề muốn thua trận. Miền nam đã thua vì miền Nam thiếu lãnh đạo chính trị. Những người lãnh đạo của chúng ta từ ông Ngô Đình Diệm đến ông Nguyễn Văn Thiệu quá tầm thường, không so sánh nỗi với Park Chung Hee.

Nhưng ít nhất hòa bình đã trở lại và đất nước được thống nhất. Hơn 60% dân số Việt Nam hiện nay là thanh thiếu niên tuổi dưới 30 được hưởng thanh bình, không trải qua thống khổ chiến tranh như cha anh. Nhìn chiến tranh giết chóc và tàn phá ở Bosnia, Kosovo và Chechnya chúng ta thấy được sống trong hòa bình là may mắn. Khói lửa tại Việt Nam đã mang lại quá nhiều khủng khiếp và tang thương.

Gần 150.000 người bỏ nước ra đi năm 1975 và đến nay có hơn 1 triệu 500 ngàn người Việt lưu vong. Khắp mọi ngõ ngách trên thế giới người Việt Nam chứng tỏ có khả năng. Người Việt đã đóng góp xứng đáng vào quốc gia đang sống, và hấp thụ tối đa vốn liếng khoa học của nước người. Nhưng vốn liếng đó có hữu ích cho quê cha đất tổ không thì phải còn chờ. Nếu trong vài thế hệ con cái chúng ta sinh ra ở hải ngoại quên tiếng nói, không định được Việt Nam nằm đâu trên bản đồ thế giới thì sự lưu vong đó phỏng có ích gì.

Có lý do để lo lắng. Chúng ta có khả năng bắt chước nhưng không có khả năng tích lũy vì thiếu vốn liếng văn hóa. Câu chuyện sau đây cách đây 42 năm vẫn còn làm tôi suy nghĩ. Khoảng tháng Tư năm 1958 nhân đến Phi Luật Tân tôi đến thăm một người bạn đang học tại trường đại học canh nông ở Los Banos gần thủ đô Manila. Trường canh nông Los Banos có nhiều sinh viên các nước Á Châu đến học, trong đó có cả sinh viên Nhật Bản. Trường đang thực hiện ngày văn hóa cổ truyền của các quốc gia có sinh viên du học, và các sinh viên Việt Nam trong đó có bạn tôi đang lo sốt vó. Trong khi sinh viên các nước Lào, Miên, Triều Tiên, Trung Hoa, Nhật Bản... ung dung tập lại điệu vũ dân tộc mà họ đã biết từ hồi thơ ấu thì các sinh viên Việt Nam không biết múa điệu gì. Chẳng có điệu vũ nào là điệu vũ Việt Nam. Loay hoay mãi sau cùng Việt Nam múa nón. Một vài sinh viên sinh trưởng ở Hà Nội còn biết chút ít múa nón là gì, sinh viên gốc miền Nam và miền Trung thì mù tịt. Cuối cùng tôi thấy các anh chị sinh viên xào nấu sáng tạo ra điệu múa nón (Tàu nhiều hơn Việt) để góp mặt với làng nước Á châu.

Nhìn qua truyền thống dân chủ của các nước Âu Mỹ nơi đa số người Việt lưu vong đang sống chúng ta cũng đã học được rất ít hay chưa học được gì. Bất đồng ý kiến, cãi nhau tận lực là dân chủ, nhưng sau khi đã có ý kiến đa số thì hòa bình trở lại để thực hiện hay thi hành quyết định chung dù trong cái chung đó không có mình, đó là dân chủ. Không vì cãi nhau mà hiềm khích là dân chủ. Sống trong truyền thống đó chúng ta thường làm khác. Ý của anh thì anh làm đi, không có tôi. Cho nên hội đoàn từ 10 xuống 7 người, rồi từ 7 xuống 4 người, cứ thế hội tan, hay chỉ còn ông chủ tịch.

Danh nghĩa và số lượng chúng ta không thiếu. Chúng ta có ít nhất hai hội đại diện người Việt trên toàn thế giới, ba hội đại diện người Việt tại Hoa kỳ, và không nước nào không có ít nhất vài hội. Nhưng chúng ta không mạnh vì thiếu đoàn kết. Vì vậy tiếng nói của người Việt hầu như không có trọng lượng trong các cuộc bầu cử địa phương. Tiểu bang California có gần một triệu người Việt, có thể có hơn 150.000 phiếu. Nếu ai cũng ý thức đi bầu và dồn phiếu được người Việt tại California có thể làm thay đổi sự thắng bại của ứng viên Dân Chủ hay Cộng Hòa tại bang nhà, chuyển 54 phiếu cử tri đoàn của tiểu bang cho ứng cử viên được ủng hộ. Và trong một cuộc bầu cử ngang ngửa toàn quốc con số cử tri đoàn này có thể làm thay đổi kết quả cuộc bầu cử tổng thống tại Hoa Kỳ. Dù chỉ là giả thuyết, sự tính toán trong khuôn khổ của Hiến pháp Hoa Kỳ như vậy cũng đủ làm cho người lãnh đạo Hoa kỳ phải quan tâm đến quan điểm chính trị của người Việt tị nạn cộng sản tại Hoa Kỳ, không cần phải xuống đường đả đảo các đoàn tuyên truyền văn hóa do chính quyền Hà nội cử ra nước ngoài, cũng chẳng cần phải tẩy chay sinh viên trong nước được Hà nội gởi ra ngoài học. Sinh viên được gởi ra nước ngoài đều thuộc thành phần có thế lực của đảng cộng sản. Cộng đồng hải ngoại càng xua đuổi họ bao nhiêu họ càng thấy chính sách của cha anh họ trong nước là đúng, và khi có cơ hội cầm quyền họ sẽ trở nên bảo thủ hơn. Chẳng lợi gì về lâu về dài cho đất nước.

Câu chuyện đáng buồn nhất về nạn ham danh của người Việt là chuyện Văn Bút Việt Nam hải ngoại. Là một thành phần được hội Văn Bút Quốc Tế công nhận, tiếng nói của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại một thời rất có trọng lượng về các vấn đề nhân quyền tại Việt Nam và trong các cuộc tranh đấu cho các nhà văn, nhà thơ bị đàn áp trong nước. Do danh vị đó nên có sự tranh dành chức chủ tịch bằng những thủ thuật thiếu dân chủ. Khoảng giữa thập niên 1990 Văn Bút Việt Nam hải ngoại bị xé làm đôi. Hội nào cũng vận động để được Văn bút Quốc Tế công nhận. Nhưng Văn Bút QuốcTế không nhận hội nào, chỉ khuyên hai hội dàn xếp với nhau trước khi bàn đến tư cách hội viên của Văn Bút Quốc Tế. Hiện nay các hội Văn Bút Việt Nam vẫn còn, nhưng tiếng nói quốc tế thì... im luôn!

Ngoài ham danh, thiếu tự tin là một đặc tính khác của người Việt. Gần như có một điều tin tưởng hằn sâu trong trí người Việt là "ngoài ta ra" không ai có thể làm gì khá cả. Tại hải ngoại đoàn thể nào làm được việc gì đáng kể đều bị nghi ngờ có bàn tay của ai đó sau lưng. Bàn tay có thể là Mỹ hay cộng sản tùy theo phẩm chất và hướng làm việc của đoàn thể đó.

Thiếu khoan dung và nóng vội là hai đặc tính khác. Khoảng thập niên 1980, nhóm Thông Luận, một nhóm trí thức tại Pháp bị kết án thân cộng vì đường lối giải quyết bế tắc dân tộc của họ là "hòa giải" và "bất bạo động". Thế nhưng, chỉ cần đọc tài liệu đúc kết cơ sở lý luận của Thông Luận được phổ biến rộng rãi thì có thể thấy Thông Luận chống độc tài cộng sản có lập trường vững chắc làm cho những người cầm quyền tại Hà Nội lo âu. Sự "hiểu lầm" này đến hôm nay vẫn còn bàng bạc đâu đó mặc dù tình hình cộng sản quốc tế và Việt Nam đã thay đổi từ cuối thập niên 1980 cho thấy nhóm Thông Luận nhìn xa và đã nhìn được vào cốt lõi của vấn đề đấu tranh tái lập dân chủ tự do cho đất nước. Thông Luận bây giờ đã trở thành "Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên."

Nhìn lại, nếu người cộng sản Việt Nam đã không đóng vai một người thắng trận tốt làm cho đất nước thêm tan hoang và mối hận giữa kẻ thắng người thua thêm sâu đậm, chúng ta thấy chúng ta cũng đã không đóng vai người thua trận tốt như người Nhật. Năm 1945 sau khi đánh bại và chiếm đóng Nhật, người Mỹ sợ nhất là dân chúng Nhật giết lính chiếm đóng. Nhưng không, cả nước Nhật im lặng bên cạnh quân đội viễn chinh Hoa Kỳ, chấp nhận bản Hiến Pháp do ông tướng McArthur viết ra, đóng vai kẻ thua trận biết tự trọng, ra đường tránh xa quân nhân Mỹ để họ khỏi nghi ngờ, gái Nhật không ồ ạt đi làm điếm cho lính Mỹ, và bắt tay vào công cuộc xây dựng kinh tế. Ba mươi năm sau Nhật là một lực lượng kinh tế chỉ đứng sau Hoa Kỳ và hơn cả Âu Châu hợp lại. Người Nhật thua trận được sự kính nễ của cả thế giới.

Người Tây Phương, ít nhất là người Pháp, người Mỹ và người Nga, khi tiếp xúc với người Việt họ thấy một điều kỳ lạ. Dân tộc độc nhất vô nhị trên thế giới từng đánh thắng quân Nguyên, đoàn quân mà "vó ngựa đến đâu cỏ không mọc nổi ở đó", đánh thắng đế quốc Pháp và mới đây đã thắng quân đội Mỹ lại là một dân tộc nhiều tư ti mặc cảm. Ai chúng ta cũng gọi là "thằng" (thằng Tây, thằng Mỹ, thằng Nga), nhưng trong thâm tâm chúng ta sợ Tây, sợ Mỹ lẫn sợ Nga. Hồi Pháp thuộc tên có đèo theo chữ Pháp Josephine, George, Robert... mới là quí phái. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam từ 1955 đến 1975 quân đội miền Bắc được trang bị bằng vũ khí Nga, quân đội miền Nam bằng vũ khí Mỹ, chiến lược chiến tranh do tướng Nga và tướng Mỹ vạch ra từ Mạc Tư Khoa và Hoa Thịnh Đốn.

Thời kỳ phóng tay phát động quần chúng tiêu diệt địa chủ ở miền Bắc những năm 1954, 55 là tệ hại nhất. Đảng cộng sản Việt Nam thanh lọc địa chủ theo công thức của Trung quốc. Số địa chủ cần phải giết do đội cải cách địa phương thiết lập sau khi làm việc với bần cố nông. Tại Trung quốc số địa chủ cao hơn ở Việt Nam, nên khi thấy tỉ số địa chủ bị giết thấp, cố vấn Trung quốc đề nghị tăng lên thì đảng cộng sản Việt Nam răm rắp tuân theo, ra lệnh cho các đội cải cách tăng số người bị đấu tố, làm không biết bao nhiêu nông dân thuộc thành phần trung nông bị giết oan.

Đảng cộng sản nếu kể từ thời chống Pháp gồm những thành phần ưu tú yêu nước thì bây giờ chỉ biết quyền lực mà quên tương lai lâu dài của dân tộc. Họ "đổi mới" để qua sóng gió quốc tế nhưng vẫn không chịu thực hiện những cải cách dân chủ cần thiết vì thiếu tự tin và sợ dân. Chính sách đó làm giới trẻ mất lòng tin vào tương lai của đất nước. Thanh thiếu niên Việt có chút khả năng và điều kiện tìm cách chạy ra nước ngoài. Chất xám Việt Nam mất dần không thấy có tương lai trở lại như ngày trước người Nhật ra đi học hỏi của người để mở mang đất nước.

Môt hôm tôi đến thăm một họa sĩ khả kính. Anh tốt nghiệp trường mỹ thuật Paris và sống tại quận Cam, California. Chúng tôi nói về đất nước. Câu chuyện chuyển sang nói về tình hình kinh tế hậu chiến của Việt Nam. Tôi lạc quan nhận xét rằng tình hình yếu kém hiện tại do hậu quả của chiến tranh và thiếu dân chủ tại Việt Nam. Thời gian sẽ hàn gắn vết thương chiến tranh và dân chủ sẽ tới bằng cách này hay cách khác. Lúc đó chúng ta sẽ hùng mạnh như Nhật Bản thôi vì so sánh mọi mặt về con người, về lịch sử, chúng ta không thua sút gì Nhật Bản, nếu không muốn nói chúng ta có lợi thế hơn về thời tiết, đất đai và biển cả. Người bạn tôi trầm ngâm, rồi lắc đầu bảo tôi: Không đơn giản như thế đâu anh. Người Nhật khác chúng ta. Họ có một thứ truyền thống và một tinh thần chúng ta không có, dù chúng ta hay nói về truyền thống và chiều dài của văn hóa Việt Nam. Tôi do dự không tin. Nhưng thời gian làm cho tôi thấy nhận xét của người họa sĩ có lý.

Tôi có một người bạn khác ở làng Thanh Minh thuộc quận Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Trước năm 1975 vì chiến tranh anh phải về sống tại thị xã Nha Trang. Giấc mộng của anh là khi hết chiến tranh về quê, đêm hè mắc võng ngoài vườn ngủ nghe tiếng dế kêu. Chiến tranh chấm dứt anh chưa kịp về quê đã phải đi học tập cải tạo rồi sau đó vượt biên. Liên xô sụp đổ, chế độ cộng sản Việt Nam cởi mở cho phép người Việt về thăm nhà. Tôi hỏi anh, khi nào về thăm quê để nghe tiếng dế kêu. Anh trả lời: đất nước còn quá nhiều mâu thuẫn còn lòng dạ đâu nghe tiếng dế kêu.

Tôi băn khoăn, ngoảnh cổ nhìn lại 25 năm trôi qua hướng nào cũng thấy bế tắc, trong cũng như ngoài, kẻ thắng cũng như người bại. Tôi buồn, nhưng tôi vẫn tự hào là người Việt.

Và tôi lẩn thẩn tự hỏi: Hay là nhiễm sắc thể của dòng máu Việt có vấn đề? (March 2000)


Trần Bình Nam

http://www.vnet.org/tbn