Hồ Diệu Bang và biến cố Thiên An Môn
Trần Bình Nam
Hôm nay ngày 15/4/2009, đúng 20 năm
ngày ông Hồ Diệu Bang, một lãnh tụ cộng sản Trung quốc qua đời (15/4/1989). Sự
qua đời của ông đã tạo nên biến cố Thiên An Môn xuýt lật đổ chế độ cộng sản tại
Trung quốc. 
Tuy nhiên dù chế độ cộng sản tại Trung
quốc không bị lật đổ, biến cố Thiên An Môn đã biến đổi bộ mặt của Trung quốc.
Đặng Tiểu Bình sau khi ra lệnh đàn áp cuộc biểu tình Thiên An Môn hiểu rằng
tinh thần dân chủ đã bén rễ trong giới sinh viên và những thành phần tiến bộ
nên ông đã đẩy mạnh chương trình canh tân kinh tế và cởi mở chính trị trong
vòng kiểm soát của đảng mà ông đã chủ xướng từ trước biến cố Thiên An Môn.
Ông Hồ Diệu Bang xuất thân từ một gia
đình nông dân tại tỉnh Hồ Nam. Ông sinh ngày 20/11/1915 vào lúc Trung quốc bước
vào thời đại cách mạng dân chủ sau khi Thanh triều bị lật đổ. Ông theo phong
trào cộng sản dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông và xuýt chết trong cuộc
trường chinh 1934-1935 khi đoàn quân đang tan tác của Mao trốn chạy sự săn đuổi
của quân đội Tưởng Giới Thạch từ miền nam Trung quc lên Diên An.
Vốn là một người chủ trương kinh tế
thị trường và phóng khoáng chính trị, ông Hồ Diệu Bang lãnh đạo Đoàn Thanh Niên
Cộng Sản từ 1952 đến 1967, và sau khi Đặng Tiểu 
Bình củng cố được thế lực năm 1981 Đặng đã chọn Hồ Diệu Bang làm Tổng bí
thư đảng cộng sản Trung quốc. Ở chức vụ này, và với sự ủng hộ ngầm của Đặng
Tiểu Bình ông Hồ Diệu Bang đã thực hiện nhiều cuộc cải tổ quan trọng như nới
lỏng tự do ngôn luận và nhờ đó ông rất được lòng giới trẻ nhất là thành phần
sinh viên.
Cuộc cải tổ của Đặng Tiểu Bình và Hồ
Diệu Bang đã mang lại một không khí phấn khởi theo hướng dân chủ hóa cho Trung
quốc, và vào cuối năm 1986 sinh viên trên toàn quốc đã có thể tổ chức những
cuộc biểu tình nho nhỏ và ôn hòa để bày tỏ ý kiến về các vấn đề quốc gia nhất
là vấn đề dân chủ hóa và cải thiện đời sống kinh tế (1)
Tuy nhiên sau cuộc biểu tình lớn của
sinh viên tại Thượng Hải vào tháng 12/1986, Đặng Tiểu Bình và các thành phần
thận trọng trong Bộ chính trị lo ngại và đã áp lực Hồ Diệu Bang từ chức ngày
16/1/1987. Và Đặng thay thế Hồ Diệu Bang bằng một nhân vật cởi mở khác là Triệu
Tử Dương để duy trì hướng cải tổ trong chừng mực, đồng thời cân bằng nội bộ với
một ủy viên chủ trương cứng rắn là thủ tướng Lý Bằng. Sau cuộc chỉnh đốn nội bộ
để kìm hãm bớt phong trào đòi dân chủ này Hồ Diệu Bang tuy không còn quyền lực
đã trở thành một biểu tượng của phong trào đòi dân chủ tại Trung quốc .
Ngày 15/4/1989 Hồ Diệu Bang đột ngột
qua đời. Tại Bắc Kinh, Thượng Hải và vài thành phố lớn khác sinh viên và dân
chúng xuống đường bày tỏ lòng thương tiếc.Trước áp lực của quần chúng đảng cộng
sản Trung quốc cho cử hành quốc táng. Vào ngày tang lễ (22/4) hơn 100.000 sinh
viên tập trung tại quảng trường Thiên An Môn và sau đó hằng ngày tổ chức các
cuộc tuyệt thực và biều tình đòi cải cách dân chủ. 
Sau hơn một tháng do dự, thăm dò ý
kiến các tướng lãnh, và nhất là sau khi sinh viên biểu tình đập các bình cắm
hoa nhỏ (Tiểu Bình tên của Đặng Tiểu Bình có nghĩa là bình cắm hoa nhỏ) Đặng
Tiểu Bình hiểu rằng phong trào sinh viên không những đòi dân chủ mà họ còn có ý
định tiêu diệt cá nhân ông, ông quyết định ra tay.
Binh sĩ được điều động từ miền Bắc xa
xôi về đã nổ súng trực xạ vào đám  sinh
viên ngày 3 & 4 tháng 6, giết chết hằng trăm người trước sự chứng kiến kinh
hoàng của toàn thế giới. Sau cuộc đàn áp này quyền hành của Đặng Tiểu Bình được
củng cố hơn. Ông cách chức Triệu Tử Dương và đưa Giang Trạch Dân lên thay.
Cho đến lúc này đã có nhiều nỗ lực tại
Trung quốc để đánh giá lại hành động của đảng cộng sản Trung quốc trong vụ
Thiên An Môn, đồng thời vãn hồi danh dự 
cho Hồ Diệu Bang như một nhà cải cách. Năm 2005 chính quyền Trung quốc
đã chuẩn bị cho phổ biến tiểu sử của Hồ Diệu Bang và làm lễ truy điệu ông nhân
dịp sinh nhật thứ 90 của ông tại tỉnh Hồ Nam (2). Điều này không có gì ngạc
nhiên vì đương kim Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào vốn là người cùng xuất thân từ Đoàn
Thanh niên cộng sản Trung quốc và Hồ Diệu Bang là người đã đề cử Hồ Cẩm Đào vào
Trung ương đảng. Nhưng việc này vẫn bị xếp lại ngoại trừ một buổi lễ nhỏ được
cử hành vào ngày 18/11/2005 tại Bắc Kinh và được báo chí đăng tải. Đó là lần đầu
tiên kể từ ngày Hồ Diệu Bang qua đời tên ông được chính thức xuất hiện trên báo
chí do đảng kiểm soát.
Về vấn đề đánh giá vụ Thiên An Môn sẽ
không có việc nhận sai lầm trong quyết định đàn áp như nhiều nhà quan sát tình
hình Trung quốc chờ đợi. 
Có nhiều ý kiến khác biệt về vụ Thiên
An Môn. Một ý kiến cho rằng lãnh đạo Trung quốc đã chờ đợi 40 ngày trước khi
dùng bạo lực (tính từ 22/4/1989 ngày cử hành tang lễ Hồ  Diệu Bang cho đến ngày nổ súng 3/6/1989) (3)
cho nên họ không dễ dàng nhận đó là sai lầm. Đánh giá lại có thể là giải thích
hành động của họ sao cho hợp lý và hợp với tinh thần phóng khoáng trong nước để
huy động nội lực quốc dân cho chương trình quan trọng trước mắt là vươn lên như
một cường quốc kinh tế và quân sự trên thế giới. 
Một cách thực tế nếu cuộc vận động
Thiên An Môn thành công, Trung quốc có thể rơi vào nội loạn như nạn sứ quân
(war lords) sau cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên năm 1910 hay phân chia đất nước
và bạo loạn chủng tộc tại Nam Tư sau khi chế độ cộng sản dưới sự lãnh đạo của
Tito sụp đổ. Và người ta không thể kết luận là một Trung quốc xâu xé nhau sẽ có
bao nhiêu triệu người sẽ bỏ mình và thế giới sẽ chịu những hậu quả nào (4).
Việt Nam đã phản ứng
như thế nào trước biến chuyển Đông Âu và phong trào Thiên An Môn? 
Trước vụ Thiên An Môn kinh tế Việt Nam
đã suy sụp và nạn đói đang đe dọa. Tại đại hội VI năm 1986 đảng cộng sản Việt
Nam phải tìm một lối thoát để  sống còn.
Nguyễn Văn Linh, một nhân vật có thành tích cởi mở tại thành phố Hồ  Chí Minh đắc cử Tổng bí thư. Nguyễn Văn Linh
chọn đường lối đổi mới kinh tế và cởi mở chính trị theo mô thức của cuộc cải cách chính trị  (glasnost) và cải tổ hành chánh (perestroika) của Gorbachev tại Liên bang Xô
viết. 
Kết quả, cải tổ kinh tế đã giúp Việt
Nam tránh được nạn đói, nhưng cởi mở chính trị chính yếu là “cởi trói văn nghệ”
đã tạo  ra một không khí tự do ngôn luận
trong giới nghệ sĩ và nhà văn đã làm cho những thành phần bảo thủ trong đảng lo
sợ nên chỉ trong vòng 2 năm nhóm này buộc Nguyễn Văn Linh phải thắt lại.
Trong không khí của vụ Thiên An Môn
đảng cộng sản Việt Nam phải chọn một trong hai con đường:  Cải tổ chính trị theo hướng Liên bang Xô
viết, hay cải tổ kinh tế và siết chặt chính trị trong tay đảng như mẫu của
Trung quốc. Đảng cộng sản Việt Nam đã chọn con đường ngả theo Trung quốc mà họ
cho là con đường an toàn nhất. Và trong Bộ chính trị không có một ai có một cái
nhìn đủ xa để nhân cơ hội này tìm một con đường thoát lâu dài cho dân tộc. 
Người duy nhất trong Bộ chính trị chủ
trương cải tổ chính trị là ông Trần Xuân Bách nhân ông được Bộ chính trị cử làm
công tác nghiên cứu nguyên nhân  và hậu
quả của cuộc sụp đổ tại Đông Âu. Do sự nghiên cứu này ông Bách đã công khai chủ
xướng đường lối cải tổ chính trị, chính yếu là thiết lập một chế độ đa
đảng.  Nhưng tiếng nói của ông chỉ là
tiếng nói đơn độc và ông đã bị đa số gạt ra khỏi Bộ chính trị vào tháng 3/1990
trước khi nhiệm kỳ chấm dứt. Gạt bỏ ông Trần Xuân Bách đảng cộng sản Việt Nam
đã bỏ qua một cơ hội dân chủ hóa đất nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam có thể thích
thú khi thấy đảng cộng sản Trung quốc ra tay đàn áp và thấy họ không chịu dân
chủ hóa đất nước là hữu lý. 
Nhưng lịch sử sẽ nghiêm khắc phán đoán
đảng cộng sản Việt Nam về quyết định này. Trung quốc và Việt Nam có nhiều khác
biệt căn bản. Trung quốc là một nước lớn, Việt Nam là một nước nhỏ. Miền Nam
Việt Nam từng được hưởng một chế độ dân chủ nên một chuyển biến từ một chính
thể độc tài sang một chính quyền dân chủ nếu có vài xáo trộn lúc đầu cũng sẽ
được ổn định trong một thời gian ngắn, một việc không thể xẩy ra tại Trung quốc
là một nước rộng gấp 29 lần Việt Nam, dân số gần một tỉ người và chưa hề biết
bộ mặt dân chủ ngang dọc như thế nào.
Nếu nhìn vào một khía cạnh khác, Hoa
Kỳ do hội chứng Việt Nam (Vietnam syndrome) làm tê liệt cũng đã bỏ qua một cơ
hội lớn giúp tái lập một nền dân chủ  tại
Việt Nam. Nếu Hoa Kỳ nắm được sự lung lay của chế độ cộng sản Việt Nam vào thời
điểm đó và có một kế hoạch tiếp xúc với những nhân sự nắm lực lượng vũ trang
đang chao đảo lo sợ một cuộc cách mạng quần chúng, biết đâu một kế hoạch đã
được triển khai và Việt Nam đã có thể chuyển biến sang chế độ dân chủ.
Trước cơ may lịch sử bị bỏ lỡ của
những năm 1989 và 1990, người Việt Nam và các lực lượng dân chủ trên thế giới
chứng tỏ là thiếu bản lãnh. 
Nhưng đó là chuyện đã qua không gì lôi
kéo lại được. Chúng ta cần kiên nhẫn và lạc quan chờ đợi những biến chuyển
trong tương lai. Chúng sẽ đến như một tất yếu lịch sử./.
Trần
Bình Nam
April
15, 2009
(1) 
Theo “Essentials of
Modern Chinese History” by Dr. Edwin Pak-wah Leung
(2) 
 Theo bài báo “China Plans To Honor A Reformer",
Washington Post ngày 9/9/2005
(3) 
 Đảng cộng sản khắp nơi trên thế giới có truyền
thống phản ứng nhanh chóng bằng vũ lực trước các cuộc biểu tình của dân chúng.
Chờ hơn 40 ngày mới hành động là một ngoại lệ. 
(4) Tuy nhiên nếu phong trào dân chủ Thiên An Môn thành công thì
Việt Nam không thể duy trì chế độ độc tài như nó đã được duy trì cho đến hôm
nay.
 
| Trần Bình  | http://www.tranbinhnam.com |