Đối
Sách của Trung Quốc đối với Đài Loan &
 Hậu quả đối với sự ổn định của thế giới
Trần Bình 
Năm 2000
quốc hội Hoa Kỳ thông qua luật (Section 1202, National Defense Authorization
Act for Fiscal Year 2000, Public Law 106-65) yêu cầu bộ Quốc phòng soạn một bản
báo cáo cho Quốc hội về chiến lược quân sự hiện nay của Trung quốc và những gì
Trung quốc dự tính trong 20 năm tới. Sau 5 năm nghiên cứu bộ
Quốc phòng Hoa Kỳ vừa đệ trình Quốc hội bản báo cáo nói trên.         
Bản báo cáo tóm tắt dài 45 trang bao gồm nhiều khía cạnh liên
quan đến lực lượng quân sự của Trung quốc về lý thuyết cũng như về thực tế. Bài bình luận này chỉ giới
hạn về đối sách của Trung quốc đối với Đài Loan dưới con mắt của tình báo Hoa
Kỳ, và những hậu quả của nó.
Trong quan
hệ Hoa Kỳ-Trung quốc-Đài Loan, ngày 14 tháng 3 năm 2005 quốc hội Trung quốc đã
thông qua một bộ luật gọi  là “luật chống ly khai” (anti-secession
law) gồm 10 điều nhắm ngăn chận Đài Loan tuyên bố độc lập.
Điều 1 ghi nhận mục đích của bộ luật là ngăn chận ý định của Đài
Loan tách ra khỏi Trung quốc. Điều 2 xác định rằng Đài Loan là một phần đất bất khả phân của Trung
quốc, và Trung quốc sẽ không để cho Đài Loan tách ra khỏi Trung quốc dưới bất cứ
hình thức nào. Điều 3 xác định quan hệ Trung quốc – Đài Loan là việc nội bộ của
Trung quốc không nước nào bên ngoài có quyền can thiệp. Điều
4 xác định sự thống nhất quốc gia là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân Trung
quốc cũng như nhân dân Đài Loan. Điều 5 xác định điều
kiện tiên quyết để Trung quốc thương thuyết với Đài Loan để tìm một giải pháp hòa
bình là Đài Loan chấp nhận nguyên tắc một nước Trung quốc. Trong thời
gian đó Đài Loan có thể theo một thể chế chính trị
khác với lục địa (trong bộ luật, Trung quốc không dùng cụm từ “một nước, hai thể chế” như đã dùng trước
đây). Điều 6 nói những con đường để tiến tới thống nhất Trung quốc trong hòa bình
là trao đổi văn hóa, kinh tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật, y tế, thể thao và
những “hoạt động khác” giúp thăng
tiến hòa bình và ổn định. Điều 7 ghi ra một số vấn đề hai bên sẽ thảo luận với
nhau trên căn bản bình đẳng. Điều 8 nói Hội đồng Bộ trưởng và Quân ủy Trung
ương sẽ “quyết định và thi hành”
những biện pháp “không hòa bình” để
bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ Trung quốc nếu các thế lực ly khai hay một biến
chuyển nào đó làm cho Đài Loan ly khai ra khỏi Trung quốc, hoặc khi mọi con đường
thống nhất Đài Loan với lục địa bằng phương pháp hòa bình đã được dùng mà không
có kết quả. Điều 9 nói trong trường hợp có chiến tranh Trung quốc sẽ làm hết
sức mình để bảo vệ sinh mạng, tài sản và các thứ quyền căn bản của nhân dân Đài
Loan và ngoại kiều ở Đài Loan cũng như quyền của dân Đài Loan ở nước ngoài. Điều 10 tuyên bố luật có hiệu lực từ ngày công bố.
Bộ luật chống ly khai nhắm mục đích làm nản lòng
Đài Loan và Hoa Kỳ trong nỗ lực ly khai, nhưng Trung quốc không đặt mình vào hoàn
cảnh bị động nếu Hoa Kỳ muốn gây chiến với Trung quốc vì một mục đích lâu dài nào
đó. Điều 8 của bộ luật
chống ly khai không nói nhất thiết sẽ có chiến tranh nếu Đài Loan tuyên bố độc
lập mà chỉ xác định trong trường hợp này Trung quốc sẽ lấy những quyết định cần thiết.
Theo giới tình báo Hoa Kỳ chính sách của Trung quốc vừa thuyết
phục vừa áp lực Đài Loan đừng tuyên bố độc lập gồm các mặt trận ngoại giao,
kinh tế, tâm lý và quân sự. Trung quốc khuyến khích và tạo điều kiện dễ dãi
mời gọi Đài Loan đầu tư vào lục địa càng nhiều càng tốt. Đầu tư nhiều, giới kinh doanh Đài Loan sẽ không muốn thấy có chiến
tranh làm đổ vỡ. Trung quốc ve vãn 26 nước trên thế giới đang công nhận Đài
Loan và vận dụng ngoại giao “cũ cà rốt và cây gậy” để không một nước nào khác nữa
công nhận Đài Loan. Trung quốc cũng xử dụng áp lực quân sự bằng
các cuộc phối trí và thao diễn quân sự có tính đe dọa.
Bản báo cáo
của bộ quốc phòng Hoa Kỳ lượng định rằng nếu Trung quốc quyết định dùng sức mạnh
Trung quốc cũng sẽ dùng một cách tiệm tiến và trong một giới hạn chừng mực trước
không buộc các nước khác như Hoa Kỳ, Nhật Bản hay Liên hiệp quốc phải vào cuộc
ngay.
Dùng vũ khí nguyên tử nổ cao trên không trung để làm nhiễu loạn hệ
thống phòng thủ bằng điện toán của Đài Loan là một. Tuy nhiên phương pháp này
không dễ giới hạn trên vùng trời Đài Loan mà có thể ảnh hưởng sang vùng trời Trung
quốc, Nhật Bản, Phi Luật Tân và gây rối loạn trong sự lưu thông bằng đường biển
và nhất là đường hàng không trong vùng và sẽ tạo nên một phản ứng mạnh của quốc
tế. 
Trung quốc có thể gởi các đội quân đặc biệt độn nhập Đài Loan để
phá hoại các cơ sơ kinh tế, quân sự, giao thông. Trung quốc cũng có thể dùng
hỏa tiễn và không lực tấn công chớp nhoáng Đài Loan để làm tê liệt bộ máy lãnh đạo
chính trị và quân sự trước khi  Hoa Kỳ hay các lực lượng khác có thể đến
tiếp ứng. 
Trong mọi tính
toán Trung quốc e ngại nhất là sự can thiệp của Hoa Kỳ. Cho nên Trung quốc phải
tìm mọi cách trì hoãn quyết định của Hoa Kỳ và nếu Hoa Kỳ đã quyết định can thiệp
thì tìm cách làm chậm sự hiện diện của quân lực Hoa Kỳ tại chỗ. Điều này đòi hỏi những hoạt động ngoại giao ngay từ lúc này.
Trung quốc còn có một chọn lựa khác để áp lực Đài Loan là phong
tỏa. Phong tỏa có thể là bước đầu để tiến hành một cuộc đổ bộ quy mô.
Trung quốc có thể lấy cớ Đài Loan là một phần đất của Trung quốc buộc tàu bè các
nước khác trước khi cập bến Đài Loan phải ghé vào một hải cảng của Trung quốc để
được kiểm soát. Trung quốc cũng có thể lấy lý do đang thí nghiệm
hỏa tiễn để cấm thương thuyền các nước lui tới Đài Loan. Tuy nhiên khả năng
kiểm soát vùng biển và vùng trời của hải và không quân Trung quốc chung quanh Đài
Loan có giới hạn nên việc ngăn chận gián tiếp này nếu có thể làm trong eo biển Đài
Loan cũng không làm được dễ dàng trong vùng biển phía đông Đài Loan, xa các căn
cứ Trung quốc, ngoại trừ phong tỏa bằng mìn. Nhưng phong tỏa
sẽ không làm nhụt ý chí của các nhà lãnh đạo Đài Loan và phản ứng của quốc tế có
thể sẽ làm cho Trung quốc mệt mỏi trước.
Giải pháp sau cùng đối với Trung quốc để thống nhất Đài Loan bằng
vũ lực là một cuộc đổ bộ quy mô. Có nhiều cách đổ bộ Đài Loan. Cách được giới chức quân sự Trung quốc nghiên cứu kỹ nhất là lập một
đầu cầu trên đảo để đưa quân vào, sau đó thọc vào nội địa cắt đôi hòn đảo hoặc
chiếm các cơ sở quân sự và chính trị đầu não. Cuộc đổ
bộ cần những chiến dịch yễm trợ như chiến dịch phá hoại điện tử, phong tỏa đường
biển, đánh phá bằng không lực và mặt trận tiếp vận. Khi
đầu cầu đã được thiết lập tiếp vận là khâu quan trọng nhất và cần được bảo vệ bởi
hải lục không quân. Giới tình báo Hoa Kỳ cho rằng lúc này Trung quốc có
khả năng thực hiện một cuộc đổ bộ nhưng Trung quốc còn nghi ngờ sự thành công của
chiến dịch vì khả năng không vận, thủy vận và kỹ thuật phối hợp liên quân còn
thô sơ. Đó là chưa nói đến khả năng chống trả của quân đội Đài Loan và sự can
thiệp của Hoa Kỳ.
Theo giới tình báo Hoa Kỳ có hai vần đề làm cho Trung quốc phải
suy tính kỹ trước khi quyết định đổ bộ Đài Loan. Thứ nhất
là khả năng còn hạn chế của lực lượng quân sự Trung quốc, phản ứng của Đài Loan
và quốc tế. Một cuộc đổ bộ không thành công có thể làm
sụp đổ chế độ Bắc Kinh. Thứ hai là một cuộc đổ bộ (dù thành
công hay không) sẽ làm tiêu hao tiềm lực của Trung quốc và kéo dài thời gian
Trung quốc trở thành một siêu cường với tất cả cái vinh dự của nó. Đài
Loan là nguồn đầu tư lớn nhất của Trung quốc, một cuộc hành quân gây tổn thất tại
Đài Loan là một đòn nặng đối với kinh tế chung của cả
lục địa và đảo quốc. Và sau một cuộc xâm lăng sự trừng
phạt của quốc tế là điều không tránh khỏi. Đó là chưa nói đến
ảnh hưởng đến uy tín của Trung quốc đối với các quốc gia lân bang. Một
cuộc xâm lăng Đài Loan có thể sẽ làm cho Trung quốc mất quyền tổ chức Thế Vận Hội
2008 hoặc nếu không mất cũng bị thế giới tẩy chay. Hiện nay Trung quốc đang chờ
đợi Thế Vận Hội 2008 như một dịp để Trung quốc xuất hiện như một siêu cường
ngang ngữa với Hoa Kỳ. Sau cùng nếu Hoa Kỳ can thiệp bảo vệ Đài Loan cuộc đổ bộ
sẽ khó thành công mà hậu quả sẽ là một trận chiến tranh lạnh kéo dài trong nhiều
thập kỷ tới.
Tuy nhiên nếu chiến tranh giữa Trung quốc và Hoa Kỳ xẩy ra vì Đài
Loan, Trung quốc có suy vi thì Hoa Kỳ cũng mệt mỏi. Suy vi
và mệt mỏi về lâu về dài sẽ làm bên nào đuối sức trước (trước những gánh nặng
quốc tế khác) có thể là một câu hỏi nằm trong tính toán của Trung quốc và Hoa Kỳ.
Qua báo cáo
của bộ Quốc phòng đệ trình quốc hội Hoa Kỳ vấn đề quan hệ Trung quốc-Hoa Kỳ-Đài
Loan trở thành một vấn đề nóng mà những nhà lãnh đạo chính trị cả hai bên đều cần
có những cái nhìn chính xác có tính viễn kiến vào cục diện tương lai để không đưa
thế giới vào một cuộc phiêu lưu mà không ai có thể tìm thấy con đường ra.
Bản báo cáo của tình báo Hoa Kỳ miêu tả một cái nhìn khá thấu
triệt về Trung quốc trong 15 năm tới. Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ khẳng định Trung quốc sẽ
là một cường quốc về kinh tế và quân sự, Trung quốc sẽ tranh chấp vai trò lãnh đạo
thế giới với Hoa Kỳ, Trung quốc có một kế hoạch chi tiết để thống nhất Đài Loan
bằng đường lối hoà bình và bằng bạo lực quân sự.
Nhưng hai câu
hỏi quan trọng là: Thứ nhất, nếu Trung quốc không thống nhất Đài Loan bằng phương
pháp hòa bình trong một thời gian chấp nhận được Trung quốc có dùng vũ lực thống
nhất Đài Loan không? Câu hỏi thứ hai: nếu Trung quốc tấn công Đài Loan, Hoa Kỳ
có can thiệp để cứu Đài Loan không? Cả hai câu hỏi đều không
có trả lời dứt khoát. 
Về câu hỏi
thứ nhất, điều 8 của luật “chống ly khai”
chỉ rõ Trung quốc có thề dùng  phương pháp
không hòa bình (nghĩa là vũ lực) nếu
các phương pháp hòa bình kéo dài quá lâu không có kết quả. Nhưng
bao lâu gọi là lâu? Và đó là chỗ để các nhà lãnh đạo Trung
quốc co giản. Ngoại trừ Đài Loan đơn phương tuyên bố độc lập (phản ứng của
Trung quốc bằng vũ lực có thể được thế giới thông cảm ở một mức độ nào đó),
trong mọi trường hợp khác một cuộc tấn công Đài Loan sẽ làm hư hỏng toàn bộ kế
hoạch siêu cường của Trung quốc, và đó là điều các nhà lãnh đạo Trung quốc sẽ cân
nhắc kỹ trước khi hành động. 
Câu hỏi thứ hai, nếu Trung quốc đánh Đài Loan, Hoa Kỳ có nhảy vào
cuộc không?
Hoa Kỳ chưa hề xác định thái độ về việc này. Hoa Kỳ có
nhiều khó khăn nếu nhảy vào cuộc, và Hoa Kỳ có nhiều lý do để không nhảy vào. Hoa
Kỳ nhảy vào có thể làm cho chiến tranh lan rộng và biến
thành thế chiến. Hoa Kỳ không nhảy vào uy tín Hoa Kỳ có thể suy giảm nhưng không
làm Hoa  Kỳ mất
vị thế siêu cường sau khi Trung quốc vì cuộc tấn công (dù thắng lợi) trở nên
suy kém. Nếu Hoa Kỳ không can thiệp bằng bộ binh mà chỉ yễm trợ cuộc kháng chiến
của Đài Loan bằng mọi phương tiện chiến tranh giới hạn khác thì sau trận đánh Hoa
Kỳ sẽ còn sung sức hơn Trung quốc.
Như vậy, nhìn
từ cả hai phía, một cuộc chiến sẽ có nhiều bất trắc mà không bên nào có thể nhìn
thấy trước ngoại trừ một điều khá chắc chắn là cả hai bên đều “sức đầu vỡ trán” dù thắng hay bại. Đó là chưa nói đến mối nguy của một trận chiến nguyên tử mà kết quả
là sự toàn diệt thế giới.
Bình thường, đa số các nhà lãnh đạo trên thế giới - kể cả những
nhà lãnh đạo độc tài –đều có lương tri và sự tỉnh táo cần thiết để không lấy những
quyết định có thể đưa quốc gia mình đến suy vong, chưa nói đến đưa dân tộc mình
đến hủy diệt. Nhưng có những tính toán mà người lãnh đạo cho
là “nhìn xa thấy rộng” nhưng kết quả có
thể đưa quốc gia đến bên bờ vực thẳm. 
Lịch sử thế giới chứng tỏ rằng không phải quyết định nào của các
nhà lãnh đạo chính trị cũng có tính hợp lý. Năm 1914 thế giới chiến
tranh thứ nhất bùng nổ do quyết định của nhà lãnh đạo Đức Kaiser Wilhelm mượn đường
đánh Pháp đưa quân xâm lăng Bĩ để cuối cùng thua trận mất
cả một đế quốc và giết 8 triệu quân nhân. Không có một sử gia
nào có thể lý giải sự hợp lý trong quyết định của vua Kaiser Wilhelm. Nước Đức của ông đang giàu có, mạnh và được lân bang nể sợ, và liên
minh vững chắc với hai đế quốc Áo-Hung và Ottoman không sợ ai uy hiếp.
Bản nghiên cứu tình báo của Hoa Kỳ về sức mạnh và ý đồ của Trung
quốc có thể làm cho Hoa Kỳ thấy cần phải có những biện pháp đề phòng sự lớn mạnh
của Trung quốc. Nếu chỉ đề phòng và làm những gì cần thiết để không cho  phép Trung quốc dùng
kỹ thuật và hiểu biết của mình để trong tương lai đánh lại mình (như ngăn chận
việc chuyển nhượng kỹ thuật tối tân đặc biệt trong lĩnh vực vũ khí), hoặc tạo điều
kiện để Trung quốc dân chủ hóa (vì một nước dân chủ thường ít phiêu lưu) thì đó
là một sách lược bình thường. Nhưng gần một thế kỷ làm đàn anh trên thế giới Hoa
Kỳ có khuynh hướng cảm thấy bất an khi thấy ai ngang hàng với mình và nhất là có
thể đe dọa mình, nên Hoa Kỳ có thể có những chính sách mạnh tay nguy hiểm. 
Với cuộc chiến tại 
Trong không
khí của một lò thuốc súng, bản báo cáo của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ có khả năng làm
cho không khí chính trị trên thế giới trở nên ngột ngạt hơn.
Trần Bình 
| Trần Bình Nam | http://www.vnet.org/tbn |