Hoa Kỳ và mặt trận Biển Đông
Trần
Bình Nam
Mặt Trận Biển Đông phải chăng sẽ là mặt trận mở màn
cho cuộc tranh chấp Hoa Kỳ – Trung quốc khó tránh được trong thế kỷ này?
Lợi dụng Hoa Kỳ rút lui sau khi thất bại tại Việt Nam
và 15 năm sau Liên bang Xô viết (Liên Xô, nay là Liên bang Nga) sụp đổ, Trung
quốc đã từng bước tiến hành một kế hoạch bành trướng để chiếm thế thượng phong
trên thế giới trong thế kỷ 21. Trung quốc quan niệm rằng nếu thế kỷ thứ 19 là
của Anh quốc, thế kỷ thứ 20 của Hoa Kỳ
thì thế kỷ thứ 21 phải là thế kỷ của
Trung quốc.
Trung quốc không quên thời huy hoàng của nền văn
minh cổ đại của mình và ôm mối hận bị các nước Tây phương bắt nạt trong suốt 5
thế kỷ qua, cho nên người Trung quốc không phân biệt chính kiến – quốc gia hay
cộng sản –đều ủng hộ nỗ lực này. Để chuẩn bị cho nhiệm vụ lịch sử đó Trung quốc
lo phát triển kinh tế, trang bị quân sự, ổn định nội bộ và chuẩn bị tâm lý quần
chúng.
Nhiều nhà
quan sát Tây phương tuy đồng ý rằng một cuộc đụng độ giữa Hoa Kỳ và Trung quốc
khó tránh vẫn nuôi hy vọng Trung quốc càng lớn mạnh càng thấy có nhu cầu hòa
bình. Một hệ phái những nhà nghiên cứu khác tin rằng qua quá trình phát triển,
hệ thống cộng sản tại Trung quốc tan rã, một nước Trung quốc dân chủ xuất hiện
và sống hài hòa trong cộng đồng thế giới. Tuy nhiên dân chủ hay không Trung
quốc cũng không từ bỏ mộng trở thành siêu cường số MỘT trên thế giới.
Hiện nay Trung quốc đã tung phương tiện vật chất đến
Phi châu, Nam Mỹ và các nước vòng đai Đông Nam Á châu để tạo chân đứng. Lào,
Cambodia, Miến Điện, Sri Lanca đều đã cắn mồi và đã nằm trong quỹ đạo của Trung
quốc.
Bước đầu của Trung quốc là phải vượt qua vòng vây
của miền Tây Thái Bình Dương gồm biển Nhật Bản, biển Phi Luật Tân và Biển Đông.
Riêng Biển Đông là cửa chính dẫn vào eo biển Malacca và Ấn Độ Dương và cũng là
vùng biển hứa hẹn nhiều tài nguyên thiên nhiên như dầu thô và khí đốt nên Trung
quốc trong hơn 50 năm qua đã hướng mọi nỗ lực vào việc chiếm lĩnh Biển Đông để
vừa lấy những túi dầu thiên nhiên vừa mở đường ra “biển rộng”.
Tháng 5/2009 Trung quốc cho công bố một bản đồ có
hình một cái lưỡi bò bao gồm gần trọn Biển Đông nói là vùng biển thuộc chủ
quyền. Tháng 3 năm nay 2010 Trung quốc nói với hai ông Jefferey Bader (thuộc
Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ) và James Steinberg (thứ trưởng Bộ Ngoại giao
Hoa Kỳ) đang thăm viếng Bắc Kinh rằng Trung quốc xem Biển Đông là vùng Trung
quốc có “quyền lợi then chốt” (core
interest). Ngày 13/7 sau đó ông Tần Cương phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung quốc
đưa ra định nghĩa vùng có “quyền lợi then chốt” là vùng Trung quốc sẵn sàng
dùng vũ lực để bảo vệ, như Trung quốc đã xác định trước đây với Đài
Loan, Tây Tạng và Tân Cương.
Hai nước bị ảnh hưởng trực tiếp nhất bởi chính sách
Biển Đông của Trung quốc là Hoa Kỳ và Việt Nam.
Nếu chiến lược của Trung quốc thành công thế siêu
cường của Hoa Kỳ trên thế giới sẽ bị giảm sút, cho nên Hoa Kỳ đến một lúc nào
đó phải hành động để bảo vệ quyền lợi của mình. Và trong cuộc tranh chấp của
hai lực lượng Việt Nam không thể không vướng vào vì Việt Nam nằm ngay trên con
đường tiến (đường biển cũng như đường bộ) của Trung quốc. Tuy nhiên Hoa Kỳ và
Việt Nam đều có những khó khăn nên không thể triển khai một thế đáp ứng hữu
hiệu ngay từ ban đầu.
Vào thập niên 1970 quan tâm lớn nhất của Hoa Kỳ trên
thế giới là Liên Xô. Sau khi tạm liên minh với Trung quốc để cùng chống Liên
Xô, Hoa Kỳ yên tâm rút ra khỏi vùng Tây Thái Bình Dương. Đồng minh của Liên Xô
là Việt Nam thắng trận (30-4-75) nhưng không thể làm bàn tay nối dài cho Liên
Xô vì sự kềm chế của Trung quốc, một người bạn “đồng sàn dị mộng” của Hoa Kỳ
sau khi được Hoa Kỳ tặng cho quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (1)
Nhưng vào cuối thập niên 1980 Đông Âu và Liên Xô sụp
đổ, chính sách Thái Bình Dương của Hoa Kỳ phá sản. Trung quốc thay vì là lính
giữ cửa không cho Liên Xô vào Biển Đông trở thành thế lực kình chống với Hoa
Kỳ. Việt Nam vì sự sống còn đã trở thành một đồng minh bất đắc dĩ của Trung
quốc từ đầu thập niên 1990.
Trong bối cảnh địa lý chính trị đó, Trung quốc triển
khai mạnh mẽ chính sách bành trướng thế lực ra Biển Đông. Hoa Kỳ bỗng rơi vào
thế yếu chiến lược và xoay trở hết sức khó khăn. Việt Nam cũng rất lúng túng
trong sự lựa chọn đối sách chống lại sự lấn chiếm Biển Đông và gặm nhắm biên
giới đất liền của Trung quốc.
Nếu chỉ ghi những biến chuyển chính từ năm 1958, là
năm Trung quốc ban hành quyết nghị nới rộng lãnh hải kể cả lãnh hải chung quanh
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ra 12 hải lý, cho đến năm 2010, Trung quốc
đã làm nhiều hành động lấn lướt trong Biển Đông trước sự im lặng của Hoa Kỳ và
Nhật Bản và sự lúng túng của Việt Nam và của các nước trong khối Asean. Hoa Kỳ
chỉ thỉnh thoảng lặp đi lặp lại chính sách hai điểm tại Biển Đông của mình là:
(1) không can thiệp vào sự tranh chấp các hòn đảo trong Biển Đông, (2) tôn trọng nguyên tắc quốc tế về việc lưu
thông trên biển.
Bản liệt kê những hành động có tính bành trướng của
Trung quốc khá dài:
(1)
Sau khi đã chiếm trọn Hoàng Sa năm 1974, năm 1988
Trung quốc dùng sức mạnh đánh chiếm đảo Johnson Reef South và vài hòn đảo nhỏ
khác của Việt Nam trong quần đảo Trường Sa.
(2)
Ngấm ngầm xây dựng một căn cứ tàu ngầm tại Yulin nằm
ở cực nam đảo Hải Nam (do vệ tinh thương mãi của Anh khám phá năm 2007). Căn cứ
này có khả năng đồn trú một hạm đội lớn, có hầm trú ẩn cho tàu ngầm nguyên tử
và cầu tàu cho mẫu hạm, giúp hải quân Trung quốc hoạt động trong vùng Tây Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương.
(3)
Tháng Ba năm 2009 Trung quốc cho tàu ngăn cản hoạt
động “dò đáy biển” của chiếc USS
Impeccable của Hoa Kỳ ngoài hải phận quốc tế tại một nơi cách bờ đảo Hải
Nam 104 km về phía nam. Cuộc chạm trán hết sức gay cấn tưởng chừng có thể nổ
súng nếu phía Hoa Kỳ không tự chế.
(4)
Tháng 6/2009 khi chiến hạm Hoa Kỳ USS John McCain
đang cùng với hải quân Phi Luật Tân và Mã Lai Á thao dượt, Trung quốc cho tàu
ngầm lén cắt SONAR (máy dò trong nước) chiến hạm John McCain đang dòng theo.
(5)
Tháng Ba và tháng Tư 2010 Trung quốc cho thao dượt
hải quân trong vùng Đông Nam Á xuống tận phía đông eo biển Malacca và thực tập
oanh tạc các mục tiêu ngoài biển trong vùng Trường Sa. Mục đích của Trung quốc
là nới rộng hoạt động của hải quân ra vùng biển Nhật Bản, biển Phi Luật Tân,
biển Indonesia gồm cả quần đảo Marianas và Palau sát với đảo Guam.
(6)
Và như đã nói, cũng trong Tháng Ba 2010 Trung quốc
nhắn với giới chức Hoa Kỳ rằng Trung quốc xem Biển Đông là vùng có “quyền lợi then chốt” của Trung quốc .
Ngòai những
hoạt động thách thức Hoa Kỳ, Trung quốc cũng đã làm những hành động đơn phương
đụng chạm đến quyền lợi của các nước Đông Nam Á, nhất là Việt Nam như:
(7)
Năm 2007 áp lực công ty dầu khí BP của Anh hủy bỏ
giao kèo dò tìm dầu khí ngoài khơi bờ biển Việt Nam
(8)
Tháng 12/2007, Trung quốc
ban hành quyết định thành lập thành phố hành chánh cấp huyện Tam Sa gồm ba quần
đảo Hoàng Sa, Trung Sa (Macclesfield Bank) và Trường Sa đặt trực thuộc tỉnh Hải
Nam. Tỉnh này được thành lập năm 1988 sau khi tách ra khỏi tỉnh Quảng Đông.
(9)
Năm 2008 áp lực công ty dầu khí ExxonMobil của Hoa
Kỳ hủy bỏ giao kèo dò tìm dầu khí với PetroVietnam trong Biển Đông.
(10) Tháng Tư 2009
và tháng Tư năm 2010 Trung quốc đơn phương ra lệnh cấm ngư dân Việt Nam đánh cá
trên Biển Đông từ 15/5 đến hết tháng 8 từ vĩ tuyến 12 trở lên. Trung quốc cho
tàu của Sở Kiểm Ngư cùng với tàu
chiến tháp tùng để thi hành lệnh cấm.
(11) Ngày 6/5/2009
Việt Nam và Mã Lai Á nộp cho Liên hiệp quốc bản xác định vùng biển nối dài,
Trung quốc đã phản đối để ngăn cản Liên hiệp quốc xét giá trị của vùng tranh
chấp. Đồng thời với việc phản đối Trung quốc (như đã nói) cho phổ biến một bản
đồ hình lưỡi bò bao gồm gần hết Biển Đông bảo là vùng biển của họ mà không dựa
vào một căn bản quốc tế nào cả.
Trong bối cảnh
này quan hệ tay ba giữa Hoa Kỳ, Trung quốc và Việt Nam là một quan hệ rất tế
nhị.
Hoa Kỳ muốn
thực hiện chíến lược gì tại Đông Nam Á để đối đầu với Trung quốc cũng phải bắt
đầu bằng một chính sách ve vãn Việt Nam. Việt Nam nằm trên đường tiến của Trung
quốc xuống vùng Nam Á châu và Úc châu, Việt Nam có khả năng nhân lực cho một
quân đội hùng mạnh và Việt Nam vốn là đối thủ lịch sử của Trung quốc.
Nhưng ve vãn
Việt Nam không phải dễ vì hai nước từng là kẻ thù trong một cuộc chiến đẫm máu
10 năm mới tạm hòa với nhau. Trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam không ít đảng
viên cao cấp còn mang tâm lý nghi ngờ Hoa Kỳ.
Nỗ lực ve vãn Việt Nam của Hoa Kỳ bắt đầu ngay sau
khi chiến tranh Việt Nam (1955-1975) chấm dứt. Tổng thống Carter muốn thiết lập
bang giao với Việt Nam càng nhanh càng tốt. Nhưng đảng cộng sản Việt Nam trong
cơn say chiến thắng đã đòi hỏi quá nhiều (2) và cơ hội thiết lập
bang giao bị bỏ qua. Chính quyền Reagan (1980-1988) và sau đó chính quyền Bush
lớn (1988-1992) bận tâm với tình hình Trung Đông và Trung Mỹ nên chỉ quan hệ
với Việt Nam qua vấn đề tìm người Mỹ mất tích trong chiến tranh. Cho mãi đến
năm 1995 chính quyền Clinton (1992-2000) mới thiết lập bang giao với Hà Nội.
Trong những tháng cuối cùng ở chức vụ tổng thống
(sau khi tổng thống Bush nhỏ thắng cử) tổng thống Clinton đã viếng thăm Hà Nội
mở đầu cho một giai đoạn quan hệ mới giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.
Tuy nhiên chính quyền tổng thống George Bush với bộ
ba Bush, Rumsfelt, Rice quá bận rộn với cuộc chiến tranh chống khủng bố trong
nước và hai trận giặc Afghanistan và Iraq nên lơ là mặt Thái Bình Dương. Cho
mãi đến khi bộ trưởng Robert Gates thay ông Rumsfelt vấn đề Đông Nam Á Thái
Bình Dương mới được các giới chức chính quyền quan tâm tới. Bộ trưởng Robert
Gates từng là giám đốc Trung ương tình báo không quên sự quan trọng của vùng
Thái Bình Dương đối với an ninh lâu dài của Hoa Kỳ, và ông Gates đã làm những gì cần thiết để chính quyền Bush
và chính quyền Obama (được tổng thống Obama mời ngồi lại ở chức vụ bộ trưởng
quốc phòng) quan tâm đến thái độ “coi
trời bằng vung” của Trung quốc. Trong những lần đi Á châu họp hội nghị hằng năm
với các bộ trưởng quốc phòng của một số quốc gia để thảo luận về an ninh ở Á châu (3) , ông Gates
không lần nào quên bày tỏ sự quan tâm của Hoa Kỳ đối với vùng đất quan trọng
đó.
Tuy nhiên vấn đề chính sách thuộc Tòa Bạnh Cung và
Bộ Ngoại giao. Và trong gần một năm sau khi
nhậm chức người ta không thấy tổng thống Obama và bà ngoại trưởng
Clinton có một ý kiến rõ rệt nào về một chính sách Á châu, nếu không muốn nói
là thái độ thích ứng với chính sách vươn lên siêu cường của Trung quốc.
Hai chuyến viếng thăm chính thức của bà Clinton (2/2009) và sau đó của
tổng thống Obama (11/2009) cho những người lãnh đạo Trung quốc đánh giá chính
quyền mới là “mềm”. Bà Clinton đến Bắc Kinh với
một thái độ khiêm nhượng. Bà yêu cầu Trung quốc hợp tác cùng giải quyết cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Bà nói không nên để vấn đề nhân quyền làm trở
ngại sự hợp tác giữa hai nước để cùng giải quyết vụ khủng hoảng kinh tế và sự
nóng dần của bầu khí quyển, mặc dù năm 1995 khi bà đến thăm Bắc Kinh với tư
cách một đệ nhất phu nhân của Hoa Kỳ bà đã nhấn mạnh đến nhân quyền.
Chuyến thăm
viếng Trung quốc đầu tiên của tổng thống Obama cũng vậy. Không có một sự tiến bộ nào trong quan hệ Mỹ -
Trung. Truyền thông bị giới hạn tối đa. Và chỉ có những thỏa thuận không quan
trọng “cho có thỏa thuận”. Còn các vấn đề quan trọng khác như điều chỉnh giá
đồng yuan, và các biện pháp trừng
phạt Iran nếu Iran không tuân hành đòi hỏi của Liên hiệp quốc trong lĩnh vực
nguyên tử thì Trung quốc đều làm ngơ không một hứa hẹn nào cả. Kết thúc cuộc
viếng thăm không có bản Thông cáo chung. Tổng thống Obama và chủ tịch Hồ Cẩm
Đào xuất hiện trước báo chí mỗi người đọc một bản văn soạn sẵn 15 phút miêu tả
những gì đạt được theo cách nhìn của mỗi người rồi chia tay không trả lời các
câu hỏi của báo chí.
Đánh giá
chính quyền Obama là “không đáng ngại”
qua các tiếp xúc này, Trung quốc đã đi những bước lấn tới. Như đã nói, tháng
3/2010 Trung quốc nói thẳng với giới chức Hoa Kỳ họ xem Biển Đồng là vùng quyền lợi then chốt, và đó có thể là
giọt nước sau cùng làm đầy ly nước.
Hoa Kỳ quyết
định phản ứng.
Bà Hillary
Rodham Clinton, với tư cách bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đã bắn phát súng lệnh
tại cưộc hội họp hằng năm của Diễn Đàn ARF (4) tại Hà Nội ngày
23/7/2010. Bà Clinton đã chọn một diễn đàn lý tưởng. Năm nay bộ trưởng ngọai
giao Việt Nam Phạm Gia Khiêm đương kim chủ tịch hiệp hội Asean ngồi ghế chủ tọa
hội nghị ARF.
Buổi họp của
ARF là một buổi họp kín, nhưng theo ký giả
Mark Landler của tờ New York Times tường trình từ Hà Nội thì bà Clinton
đã xác định lập trường của Hoa Kỳ đối với Biển Đông là “Hoa Kỳ xem việc tự do lưu thông, tự do lui tới và sự tôn trọng luật lệ
quốc tế trên Biển Đông phù hợp với quyền lợi của Hoa Kỳ” (The United States has a national interest in freedom of
navigation, open access to Asia’s maritime commons, and respect for
international law in the South China Sea.)
Liên quan đến việc Trung quốc công bố một cách lờ mờ bản đồ
(hình lưỡi bò) xác định hầu hết diện tích Biển Đông là của họ mà không dựa vào một thứ luật lệ quốc tế nào cả vào
đầu tháng 5/2009, bà Clinton bác bỏ sự tuyên bố chủ quyền đó và nói theo luật quốc tế về biển sự đòi hỏi chủ
quyền kinh tế trong Biển Đông chỉ có thể xác định dựa trên chủ quyền hợp pháp
về đất và đảo.
Bà nói Hoa Kỳ sẵn sàng yểm trợ các cuộc thảo luận đa phương để quốc
tế hóa vấn đề Biển Đông, và lập trường của bà được 11 nước tham dự ủng hộ với
sự hiện diện của bộ trưởng ngoại giao Trung quốc Dương Khiết Trì (Yang Jiechi).
Bà Clinton cũng không quên nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ không thay đổi
lập trường căn bản từng lặp đi lặp lại trước đây là Hoa Kỳ không thiên về bên
nào trong các cuộc thương thảo đa phương. Trước đây Trung quốc thúc đẩy lập
trường thương thuyết với từng nước một (TBN: để dễ áp lực hay mua chuộc) và
chưa có nước nào công khai bác bỏ lập trường của Trung quốc, ngoại trừ Việt Nam
vì quyền lợi thiết thực của quốc gia đã đòi hỏi thương thuyết đa phương.
Đứng trước lập trường “thương thuyết đa phương” của Hoa Kỳ và
sự công khai ủng hộ của 11 nước phó hội
khác Trung quốc bị động và bộ trưởng Dương Thiết Trì cho rằng Hoa Kỳ đã vận
động trước cho lập trường của Việt Nam.
Việt Nam rất phấn khởi trước lập trường của Hoa Kỳ. Thái độ này
được bày tỏ qua các bản tin trên Vietnamnet, báo Tuổi Trẻ, báo Sài gòn Giải
phóng (vốn đi bên lề phải) đăng rõ ràng lập trường và lời lẽ cứng rắn của bà
ngoại trưởng Clinton.
Hội nghị ARF diễn ra trước ngày 25/7 là ngày hải quân Hoa Kỳ và
Nam Hàn mở màn cuộc tập trận phía đông bán đảo Triều Tiên và có dự trù cũng
diễn tập trong Hoàng Hải (vùng biển Trung quốc xem là cái hồ sau lưng nhà) với
sự tham dự của mẫu hạm nguyên tử tối tân nhất của Hoa Kỳ, chiếc George
Washington với 5000 thủy thủ và 200 máy bay.
Việc tái khẳng định lập trường của Hoa Kỳ lần này có thể so sánh
với thái độ cương quyết trước đây của tổng thống Kenndey khi quyết định phong
tỏa Cuba năm 1962. Tuy nhiên lần này tổng thống Obama gặp nhiều khó khăn hơn
tổng thống Kennedy.
Đối với Kennedy là quyết định “hòa hay chiến” khi Hoa Kỳ có bằng
cớ Liên Xô đã đặt hỏa tiễn nguyên tử tại Cuba nhắm vào Hoa Kỳ và Hoa Kỳ có đủ
khả năng “chiến” làm cho Liên Xô phải thối lui. Lần này tổng thống Obama đang
đương đầu với hai trận chiến tranh và cuộc suy thoái kinh tế chưa có lối ra.
Ngân sách Hoa Kỳ thiếu hụt và Hoa Kỳ còn nợ hơn 2 trillion mỹ kim. Chủ nợ lại chính là Trung quốc có khả năng tạo
khó khăn tài chánh cho Hoa Kỳ.
Tuy nhiên Hoa Kỳ có lợi thế hải quân. Hải quân Hoa Kỳ đi trước
hải quân Trung quốc ít nhất là 15 năm.
Hoa Kỳ cần khai thác tối đa lợi thế thời gian này bằng cách luôn
cải tiến và tối tân hóa hạm đội bằng kỹ năng cao nhất. Một khi hải quân Trung
quốc còn cảm thấy sút kém hải quân Hoa Kỳ Trung quốc sẽ dè dặt hơn.
Đồng thời Hoa Kỳ không nên quá nhạy cảm đối với mặt trận tuyên
truyền của Trung quốc. Cuộc thao diễn hải quân giữa Hoa Kỳ và Nam Hàn vừa qua
dự tính diễn ra cả trong biển Hoàng Hải đã chỉ diễn tập trong biển phía đông
Triều Tiên do sự than phiền của Trung quốc là một sự nhượng bộ không cần thiết.
Sự nhượng bô này không làm cho tình hình dịu đi mà chỉ khuyến khích Trung quốc.
Hoa Kỳ cần có lập trường cứng rắn bảo vệ các công ty dầu khí của
mình ký các giao kèo làm ăn hợp lệ với các nước chung quanh Biển Đông. Trước
hết cần khuyến khích công ty ExxonMobil trở lại với giao kèo với Việt Nam tạm
ngưng năm 2008.
Hoa Kỳ cần giúp lập một cơ cấu đa phương để dàn xếp công tác
“quốc tế hóa” quyền lợi kinh tế của các nước trong vùng trong khuôn khổ Luật
Biển và tình hình thực tế của diện địa.
Sau cùng Hoa Kỳ cần gây lại lòng tin nơi các nhà lãnh đạo Việt
Nam để vượt thắng tâm lý nghi ngờ.
Công tác sau cùng này không phải dễ dàng nhưng có thể đạt được
nếu chính quyền Việt Nam huy động được nội lực nhân dân Việt Nam qua một chương
trình cải cách chính trị có nội dung dân chủ, khai dụng tối đa tài nguyên quốc
gia để xây dựng một nền kinh tế tự túc có khả năng sản xuất, để từ đó xây dựng
một nền quốc phòng mạnh.
Việt Nam cần nghĩ đến sự phát triển hải lục không quân, nhất là
hải quân, và trang bị vũ khí, không giới hạn ở vũ khí quy ước.
Việt Nam cần nhanh chóng biến cải cảng Cam Ranh thành một thương
cảng lớn làm nơi buôn bán, ẩn nấp gió bão và tiếp tế bảo trì cho tất cả tàu
thuyền mọi quốc gia trên thế giới như một phần trong kế hoạch quốc tế hóa quyền
lợi trên Biển Đông.
Lời tuyên bố của bà ngoại trưởng Clinton tại Hà Nội hôm 23/7
đánh dấu chiến lược mới của Hoa Kỳ tại tây Thái Bình Dương đối với Trung quốc.
Nhưng chiến lược này chỉ thành công nếu
Hoa Kỳ có đủ cương quyết thực hiện, và Việt Nam có đủ khôn ngoan để khai dụng.
Trung quốc sẽ dùng mọi phương tiện để làm nhụt chí Hoa Kỳ nhất là lợi thế “chủ
nợ” và tuyên truyền bằng cách lên án Hoa Kỳ hiếu chiến, và dùng thế nước lớn để
o ép Việt Nam.
Việt Nam, dù muốn hay không lại nằm giữa hai lằn đạn. Hy vọng các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam nhận
ra được cơ hội cứu nước trước mắt và hành động một cách xứng đáng với vai trò lịch
sử của mình./.
Trần Bình Nam
August 2, 2010
(1)
Trước khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, Hoa Kỳ đã
làm ngơ để Trung quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa, chủ ý để Trung quốc làm lính chận đường tiến của Liên Xô (qua đồng minh Hà Nội) xuống Nam Thái bình
Dương và Ấn Độ Dương. Xem tài liệu số 118 (1/2004) Trang Nhà www.tranbinhnam.com trang Bình Luận.
(2)
Đòi Hoa Kỳ 3 tỉ mỹ kim xem như tiền bồi
thường thiệt hại chiến tranh có tính hạ nhục Hoa Kỳ .
(3)
Gọi là Shangri-La Dialogue, lấy tên của một
khách sạn ở Singapore, nơi làm trụ sở họp hằng năm.
(4) Asean Regional
Forum do Hiệp Hội Asean thành lập tháng 7/1993. Thành viên gồm chính yếu
các nước trong khối Asean các quốc gia ven Thái Bình Dương. Thành viên
hiện tại gồm: Australia, Bangladesh, Brunei Darussalam, Cambodia, Canada,
China, European Union, India, Indonesia, Japan, Democratic Peoples' Republic of
Korea, Republic of Korea, Laos, Malaysia, Myanmar, Mongolia, New Zealand,
Pakistan, Papua New Guinea, Philippines, Russian Federation,
Singapore, Sri Lanka, Thailand, Timor Leste, United States, Vietnam.
Mục tiêu của ARF là “kiến tạo hoà bình và an ninh trong khu vực qua hợp tác và
đối thoại.**