Hoa
Kỳ và chế độ quân dịch
Trần Bình
Quân dịch (còn được gọi là “nghĩa vụ
quân sự”) là tòng quân bắt buộc nên không ai muốn nghe nói đến hai chữ quân
dịch sặc mùi chiến tranh. Nước Mỹ ban hành chế độ quân dịch trong thời gian có cuộc nội
chiến (1861-1865), và trong hai cuộc Thế chiến (Thế chiến I: 1914-1918, Thế
chiến II: 1941-1945). Chế độ này được tái thiết lập năm 1948 khi cuộc chiến
tranh lạnh bắt đầu và chấm dứt năm 1973 khi Hoa Kỳ ký hiệp định Paris và rút
quân ra khỏi Việt Nam.
Trong 33 năm qua quân đội Hoa Kỳ gồm toàn quân nhân tình nguyện. Thanh
niên Hoa Kỳ chưa biết thế nào là quân dịch. Ngay cả
các chính trị gia cũng vậy, ngoài những vị cao niên trưởng thành trong thời kỳ
luật đó còn hiệu lực của những năm 1948 đến năm 1973. Bà dân biểu Nancy
Pelosi, người vừa đắc cử chủ tịch Hạ nghị viện đã nhanh nhẩu trả lời báo chí về
nghĩa vụ quân sự bằng một chữ “không”
khô khan cụt lủn khi được hỏi về đề nghị của
dân biểu Charles Rangel (Dân chủ, New York).
Dân biểu
Rangel cho biết ông sẽ đệ trình một dự luật tái thiết lập chế độ quân dịch vì
một lý do đơn giản là đất nước đang có chiến tranh. Ngoài phản ứng của bà Nancy
Pelosi, phản ứng chung của dân chúng và của các đại
diện dân cử đối với vấn đề quân dịch khá nguội lạnh.
Nếu là một
đại diện dân cử khác đề nghị hay nếu do Nhóm
Nghiên Cứu Iraq (Iraq Sudy Group) đồng chủ tịch bởi cựu ngoại trưởng James
Baker III (Cộng hòa) và cựu dân biểu Lee Hamilton (Dân chủ) đề xuất phản ứng
của dân chúng có thể khác. Vì đây không phải là lần đầu dân
biểu Charles Rangel đề nghị tái thiết lập chế độ quân dịch. Năm 2003 sau
khi Hoa kỳ lật đổ chế độ Taliban tại Afghanistan và đang lâm chiến ở Iraq ông
đã đề nghị chế độ quân dịch cho những thanh niên trong hạn tuổi 18 đến 26. Đề nghị của ông bị quốc hội bác bỏ với 402 phiếu chống, 2 phiếu
thuận. Đầu năm nay khi bộ quốc phòng bàn về quân số thiếu thốn nếu Hoa
Kỳ phải mở một mặt trận mới dân biểu Rangel lại đưa ra đề nghị “quân dịch” cho
tất cả thanh niên nam nữ trong hạn tuổi từ 18 đến 42. Một lần nữa cũng chỉ là
tiếng kêu trong sa mạc.
Lần này sau cuộc bầu cử ngày 7/11 đảng Dân chủ nắm đa số cả hai
viện quốc hội, tư thế của dân biểu Charles Rangel thay đổi (ông có thể trở
thành Chủ tịch Ủy ban Thuế vụ Hạ nghị viện), và tiếng nói của ông có thể sẽ
được chú ý hơn. Nhưng phản ứng nhanh chóng của bà Nancy
Pelosi cho thấy đề nghị của ông Rangel cũng khó trở thành luật trong một thời
gian thấy được trước mắt.
Đó là tâm lý dân chúng hiện nay. Tuy
nhiên nhìn về nhiều mặt khác, đề nghị của dân biều Rangel là một đề nghị đúng.
Nếu đảng Dân chủ không nắm lấy thời cơ đưa ra những biện pháp chấn chỉnh để cải
thiện tư thế của Hoa Kỳ trên thế giới mà chỉ để làm những công việc vá víu thì
Hoa Kỳ sẽ không ra khỏi những khó khăn lớn. Cuộc bầu cử ngày 7/11 ngoài mặt là một bày tỏ sự bất mãn của
dân chúng đối với chính sách của tổng thống Bush về cuộc chiến Iraq, nhưng dân
chúng không bầu đảng Dân chủ nắm quốc hội để bỏ chạy. Họ bầu đảng Dân chủ để tìm một giải pháp thích đáng giải
quyết cuộc chiến Iraq mà không làm tổn thương đến vị thế siêu cường của Hoa Kỳ.
Uy tín của Hoa Kỳ trên thế giới mới là điều quan trọng vì việc này liên quan
đến an ninh lâu dài của nước Mỹ và nền hòa bình thế giới.
Uy tín của một siêu cường nằm ở chỗ các nước khác cảm nhận sức
mạnh qua chính sách ngoại giao và phong độ của siêu cường chứ không phải qua
hành động.
Nếu phải hành động các nước nhỏ trên thế giới mới sợ thì cái
thế siêu cường không còn nữa.
Sau khi Hoa
Kỳ lâm chiến tại Iraq, những nhà lãnh đạo quân sự nghĩ rằng quân đội Hoa Kỳ sẽ
rút về trong một thời gian tối đa là một năm và quân đội Hoa Kỳ (gồm toàn người
tình nguyện) vẫn đủ và sẵn sàng cho một biến cố nào khác trên thế giới. Nhưng
khi cuộc chiến Iraq không diễn tiến như tiên liệu và quân đội Hoa Kỳ phải duy
trì hơn 140.000 quân tại đó lâu dài thì Hoa Kỳ thấy ngay nếu có một mặt trận
khác nữa Hoa Kỳ sẽ lâm vào hoàn cảnh thiếu quân. Đó là lý do tại sao
Vì vậy hiện
nay Hoa Kỳ chỉ là một hảo hán khổng lồ với hai cái chân (đúng ra là hai cánh tay) bằng đất sét. Chừng nào Hoa Kỳ thay hai cánh tay của mình bằng sắt thì Hoa Kỳ mới có tư thế bảo vệ quốc
gia và duy trì hòa bình thế giới. Và Hoa Kỳ không thể thay hai cánh tay đất sét bằng cánh tay sắt nếu không tái thiết lập chế độ
quân dịch.
Chế độ một quân đội hoàn toàn tự nguyện như hiện nay của Hoa Kỳ
đã có dấu hiệu bất ổn. Chỉ với mặt trận nhỏ ở
Đó là chưa nói đến các quân nhân trừ bị. Họ được gọi nhập ngũ như giao kèo đã ký với chính phủ, nhưng họ đều có một
đời sống dân sự cần ổn định.Thế nhưng vừa từ chiến trường về đang lo sắp xếp
trở lại đời sống dân sự thì lại có lệnh gọi. Họ phải lên
đường, dù vợ con nheo nhóc và đời sống gia đình bị xáo trộn.
Toàn bộ bức
tranh là một cái gì thiếu công bình cho những người lính tự nguyện và những
quân nhân trong đội ngũ trừ bị. Không
phải là sợ đổ máu. Một quốc gia sợ đổ máu là một quốc gia trên đường suy
vong, nên đổ máu để giữ gìn an ninh quốc gia là một
bổn phận và là một vinh dự cho mỗi một công dân. Nhưng một
người nằm xuống phải là một vinh dự cho gia đình và cho cá nhân của người nằm
xuống, chứ không phải là một điều bi thảm.
Chừng nào
người lãnh đạo quốc gia duy trì được tinh thần đó thì không lo gì không giải
quyết được các khó khăn, nhất là với một quốc gia có nhiều tiềm năng như Hoa
Kỳ. Một người lính biết mình có bổn phận ra chiến trường trong một thời gian ấn
định hợp lý nếu có ngả gục vào ngày cuối cùng, họ có thể tự hào đã làm tròn
nhiệm vụ một công dân. Nhưng nếu họ phải kéo dài thời gian
chiến đấu ấn định vì thiếu nhân lực quốc phòng (trong khi còn hàng chục triệu
thanh niên không muốn tòng quân) và phải chết thì cái chết của họ trở thành một
thảm kịch cho gia đình. Không một cái chết nào của
chiến sĩ trở thành một thảm kịch nếu mọi thanh niên trong tuổi quân dịch đều có
bổn phận phục vụ như nhau.
Tổng thống Bush đã có ý chuyển hướng chính sách
Lịch sử thế giới chứng minh rằng một thế lực đang lên có thể
thoái trào bằng một cuộc bại trận, hay bằng một cuộc rút quân. Sự chiến bại của hạm đội
đồng minh Pháp - Tây Ban Nha trong trận hải chiến tại mũi Trafalger gần eo biển
Gibraltar trước hạm đội Anh tháng 10 năm 1805 do Đô đốc Nelson chỉ huy là điểm
thoái trào của đế quốc Tây Ban Nha. Trong Thế chiến II quân
đội Đức Quốc xã tiến vào Liên bang xô viết, và sau khi thất bại trước quân đội
Nga giữa mùa đông giá buốt cuối năm 1943 qua đầu năm 1944 Đức quốc xã đi vào
suy thoái mở đường cho cuộc đổ bộ
Ngoại trừ
sau Iraq Hoa Kỳ tái lập lại thế đứng của mình bằng một chính sách ngoại giao
phù hợp với tình hình thế giới và một lực lượng quân sự hùng mạnh đủ người đủ
súng, nói được và làm được. Trước hết là cho
Nhưng Hoa Kỳ không thể tái lập uy tín của mình mà không tái lập
chế độ quân dịch. Nước Mỹ đang lâm chiến, một trận chiến nhiều
mặt trận. Chế độ quân dịch sẽ làm yên lòng quân dân và
mang lại sự tự tin cần thiết cho quốc gia.
Bà dân biểu Nancy Pelosi sau 12 năm ở thế đối lập chỉ tìm cách
chống đối phe đa số nên thiếu tầm nhìn. Trở thành Chủ tịch Hạ nghị
viện bà đã tỏ ra bỡ ngỡ và lúng túng. Trước hết bà chỉ thấy cuộc bầu cử
ngày 7/11/2006 là một cuộc trưng cầu dân ý về cuộc chiến Iraq nên đã vội vàng
ủng hộ dân biểu John Murtha (Dân chủ, Pennsylvania) người lên tiếng mạnh mẽ
nhất đòi rút quân ra khỏi Iraq thay vì chọn dân biểu Steny Hoyer (Dân chủ,
Maryland) như ý muốn của đa số dân biểu thuộc đảng Dân chủ vào chức vụ trưởng
khối đa số (và bà đã thất bại). Thứ hai là vội vàng bác bỏ đề nghị tái lập chế
độ quân dịch do một đồng viện cùng đảng có nhiều kinh nghiệm đề nghị. Nếu bà Pelosi không nhanh chóng thích ứng để hành xử phù hợp với
nhiệm vụ mới, bà sẽ trở thành một tiêu sản (liability) cho đảng Dân chủ và sẽ
ảnh hưởng không ít đến quyền lợi của Hoa Kỳ trên thế giới.
Vài ba năm
nữa khi Hoa Kỳ có một tổng thống mới, nếu Hoa Kỳ chưa tái lập chế độ quân dịch
vị thế của Hoa Kỳ trên thế giới sẽ hết sức mong manh. Thực tế
của thế giới đòi hỏi như vậy. Không có một con đường nào khác./.
Trần Bình
www.tranbinhnam.com
Trần Bình Nam
|
http://www.tranbinhnam.com |