Hòa Thượng Thích Quảng Độ

Giải Hòa Bình Nobel

Trần Bình Nam

Tháng 12 năm 1999 có hai sự việc đáng quan tâm liên quan đến Hoa Kỳ và Việt Nam. Ngày 2 tháng 12 ông David Young, đệ nhị tham vụ tòa đại sứ  Hoa Kỳ từ Hà Nội vào Quảng Ngãi thăm Hòa Thượng Thích Huyền Quang. Và ngày 10 tháng 12, nhân kỷ niệm ngày quốc tế nhân quyền 30 dân biểu Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ đã ký một lá thư gởi Viện Nobel tại Oslo đề nghị tặng giải hòa bình Nobel năm 2000 cho Hòa Thượng Thích Quảng Độ.

Sáng kiến của bà Loretta Sanchez, một dân biểu thuộc đảng Dân Chủ đại diện vùng Westminster, tiểu bang California, một vùng có đông đúc cử tri gốc Việt, người  dẫn đầu danh sách 30 dân biểu Hoa Kỳ, là một sáng kiến độc đáo hợp tình hợp lý và đúng lúc đúng thời.

Cộng đồng người Việt khắp nơi trên thế giới rất phấn khởi trước sáng kiến của bà Sanchez. Và hai nhà tranh đấu cho tự do dân chủ và nhân quyền là bác sĩ Nguyễn Đan Quế và giáo sư Đoàn Viết Hoạt đã lên tiếng ủng hộ.

Từ thành phố Sàigòn bác sĩ Nguyễn Đan Quế ghi nhận rằng Hòa Thượng Quảng Độ từng bị tù và quản thúc trong 18 năm là người tranh đấu không ngừng cho quyền tự do tín ngưỡng trong tinh thần bao dung, bác ái và tình thương. Vũ khí duy nhất hòa thượng dùng cho cuộc tranh đấu là lý trí, sự can đảm và tinh thần bất bạo động. Và từ thành phố Annandale, tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ giáo sư Đoàn Viết Hoạt viết trong một bản thông cáo ngắn: "Giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 2000 nếu được trao cho Hòa Thượng Thích Quảng Độ, một người suốt đời đấu tranh cho tự do tôn giáo, sẽ không những làm sáng tỏ lý tưởng tự do và nhân quyền, mà còn giúp thúc đẩy hình thành một xã hội toàn cầu hòa bình, bao dung và nhân ái"

Giải hòa bình Nobel được thành lập cách đây hơn 100 năm do sáng kiến của nhà hóa học Thụy Điển, ông Afred Bernard Nobel, một người nhờ sáng chế ra chất nổ TNT và trở nên giàu có. Trước khi qua đời ông Nobel viết di chúc ký thác tài sản vào một quỹ đặc biệt và thành lập Nobel Foundation để quản trị tài sản của ông dùng tiền lời để phát thưởng cho những ai cống hiến lợi ích cho nhân loại trong các lĩnh vực vật lý, hóa học, sinh lý học, y khoa, văn chương và hòa bình. Từ năm 1968 có thêm giải kinh tế.  Giải hòa bình do một Ủy ban 5 người do quốc hội Na Uy bổ nhiệm quyết định. Giải trao gồm một huy chương bằng vàng khối và một số tiền mặt giá trị hiện nay lên đến hơn 1 triệu mỹ kim.

Hai giải hòa bình Nobel trước đây được dư luận chú ý nhiều nhất là giải hòa bình năm 1973 trao cho Henry Kissinger và Lê Đức Tho, hai nhà thương thuyết Mỹ Việt đưa đến kết quả chấm dứt chiến tranh Việt Nam, và giải năm 1994 trao cho Yasser Arafat và thủ tướng Do Thái Yitzhak Rabin (chung với bộ trưởng ngoại giao Shimon Perez) do nỗ lực của Arafat và Rabin vượt mọi cản trở nội bộ để thực hiện hòa bình. Cả hai giải đều đượm màu sắc chính trị vì những người được giải (ngoại trừ thủ tướng Rabin) không phải là những nhà hòa bình. Họ từng là người khủng bố như Yasser Arafat và Lê Đức Thọ, hay nhà chính trị thực hiện hòa bình như một nhiệm vụ được giao phó như Henry Kissinger. Ủy Ban chọn lựa quyết định trao giải để khuyến khích những người trong cuộc tiếp tục con đường thực hiện hòa bình. Sợ mắc mưu của Ủy Ban hòa bình Nobel đảng Cộng sản Việt Nam ra lệnh cho Lê Đức Thọ từ chối không nhận giải.

Trong bản đề nghị gởi Ủy Ban Hòa Bình Nobel, các dân biểu Hoa kỳ viết hòa thượng Thích Quảng Độ xứng đáng nhận giải hòa bình vì: "ngài là người chủ trương đấu tranh và phản kháng bất bạo động trước mọi sự đàn áp bằng vũ lực." Lá thư của 30 dân biểu Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng: "Cũng giống như giám mục Desmond Tutu của Nam Phi và đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng , hòa thượng Quảng Độ là một tấm gương sáng ngời  trong cuộc tranh đấu cho những quyền căn bản của  con người là nhân quyền và tự do tín ngưỡng" Giám mục Desmond Tutu được tặng giải hòa bình năm 1984 và đức Đạt Lai Lạt Ma năm 1989.

Ủy Ban trao giải sẽ quyết định như thế nào trước đề nghị của 30 ông bà dân biểu Hoa Kỳ? Điều này tùy thuộc vào danh sách những nhân vật được đề cử,  vào dư luận quốc tế, và vào một yếu tố quan trọng khác là vận động của chính phủ Hoa Kỳ.

Hành pháp và lập pháp Hoa kỳ trên nguyên tắc độc lập với nhau, nhưng trong sách lược chung để phục vụ quyền lợi của quốc gia hai ngành vẫn tham khảo ý kiến, để nếu cần, phối hợp hành động với nhau. Nói về hai nhân vật Phật Giáo đấu tranh bất bạo động lỗi lạc thì hòa thượng Thích Huyền Quang và Hòa Thượng Thích Quảng Độ đều xứng đáng như nhau. Vậy tại sao lại là hòa thượng Quảng Độ mà không phải là hòa thượng Huyền Quang được đề nghị? Và có thể đó là lý do chính của cuộc thăm viếng hòa thượng Huyền Quang của vị đệ nhị tham vụ tòa đại sứ Mỹ 8 ngày trước khi bản đề nghị của 30 vị dân biểu Hoa Kỳ được gởi đến Ủy Ban chọn giải hòa bình.

Và một câu hỏi khác. Tại sao Hà Nội cho phép ông David Young đến thăm hòa thượng Huyền Quang? Lý do "không tham dự vào chuyện nội bộ của nhau" là lý do Hà Nội vẫn dùng không chút nể nang trong 17 năm qua kể từ ngày hòa thượng Huyền Quang bị bắt để từ chối các yêu cầu thăm viếng trước đây của Hoa Kỳ và của các nhân vật quốc tế nổi danh khác gồm nhà báo, nhà ngoại giao và đại diện các tổ chức bất vụ lợi quốc tế. Tháng 10 năm 1998 Hà Nội từ chối không cho phép Ủy Viên đặc biệt của Liên hiệp quốc đi điều tra về sự thiếu khoan dung trong lĩnh vực tôn giáo là ông Abdelfattah Amor bất chấp sự bất mãn của dư luận thế giới.

Vậy phải có một lý do đặc biệt và quan trọng để Hà Nội đồng ý cho ông David Young đến Quảng Ngãi gặp hòa thượng Huyền Quang. Bản công bố của các vị dân biểu Hoa Kỳ sau đó là một lý do. Lý do khác có thể là chuẩn bị cho sự hòa giải giữa chính quyền Hà Nội và giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất sau khi hòa thượng Quảng Độ được giải hòa bình Nobel, và quan trọng hơn cả là một  chính sách hợp tác lâu dài giữa Hoa kỳ và Việt Nam sắp được thành hình.

Đối với quốc hội Na Uy, giải hòa bình Nobel là một giải chính trị. Và nếu là chính trị thì ảnh hưởng của Hoa Kỳ trong quyết định không phải là nhỏ. Nhưng ít nhất đây là một thứ chính trị vương đạo. (Dec. 1999)


Trần Bình Nam

http://www.vnet.org/tbn