Hòa Thượng Thích Quảng Độ
và
Giải Hòa Bình Nobel
Trần Bình 
Tháng 12 năm 1999 có hai sự việc đáng
quan tâm liên quan đến Hoa Kỳ và Việt 
Sáng kiến của bà Loretta Sanchez, một dân biểu thuộc đảng
Dân Chủ đại diện vùng Westminster, tiểu bang California, một vùng có đông đúc
cử tri gốc Việt, người  dẫn đầu danh sách
30 dân biểu Hoa Kỳ, là một sáng kiến độc đáo hợp tình hợp lý và đúng lúc đúng
thời. 
Cộng đồng người Việt khắp nơi trên thế giới rất phấn khởi
trước sáng kiến của bà Sanchez. Và hai nhà tranh đấu cho tự do dân chủ và nhân
quyền là bác sĩ Nguyễn Đan Quế và giáo sư Đoàn Viết Hoạt đã lên tiếng ủng hộ. 
Từ thành phố Sàigòn bác sĩ Nguyễn Đan Quế ghi nhận rằng
Hòa Thượng Quảng Độ từng bị tù và quản thúc trong 18 năm là người tranh đấu
không ngừng cho quyền tự do tín ngưỡng trong tinh thần bao dung, bác ái và tình
thương. Vũ khí duy nhất hòa thượng dùng cho cuộc tranh đấu là lý trí, sự can
đảm và tinh thần bất bạo động. Và từ thành phố Annandale, tiểu bang Virginia,
Hoa Kỳ giáo sư Đoàn Viết Hoạt viết trong một bản thông cáo ngắn: "Giải
thưởng Nobel Hòa Bình năm 2000 nếu được trao cho Hòa Thượng Thích Quảng Độ, một
người suốt đời đấu tranh cho tự do tôn giáo, sẽ không những làm sáng tỏ lý
tưởng tự do và nhân quyền, mà còn giúp thúc đẩy hình thành một xã hội toàn cầu
hòa bình, bao dung và nhân ái" 
Giải hòa bình Nobel được thành lập cách đây hơn 100 năm
do sáng kiến của nhà hóa học Thụy Điển, ông Afred Bernard Nobel, một người nhờ
sáng chế ra chất nổ TNT và trở nên giàu có. Trước khi qua đời ông Nobel viết di
chúc ký thác tài sản vào một quỹ đặc biệt và thành lập Nobel Foundation để quản
trị tài sản của ông dùng tiền lời để phát thưởng cho những ai cống hiến lợi ích
cho nhân loại trong các lĩnh vực vật lý, hóa học, sinh lý học, y khoa, văn
chương và hòa bình. Từ năm 1968 có thêm giải kinh tế.  Giải hòa bình do một Ủy ban 5 người do quốc
hội Na Uy bổ nhiệm quyết định. Giải trao gồm một huy chương bằng vàng khối và
một số tiền mặt giá trị hiện nay lên đến hơn 1 triệu mỹ kim.
Hai giải hòa bình Nobel trước đây được dư luận chú ý
nhiều nhất là giải hòa bình năm 1973 trao cho Henry Kissinger và Lê Đức Tho,
hai nhà thương thuyết Mỹ Việt đưa đến kết quả chấm dứt chiến tranh Việt Nam, và
giải năm 1994 trao cho Yasser Arafat và thủ tướng Do Thái Yitzhak Rabin (chung
với bộ trưởng ngoại giao Shimon Perez) do nỗ lực của Arafat và Rabin vượt mọi
cản trở nội bộ để thực hiện hòa bình. Cả hai giải đều đượm
màu sắc chính trị vì những người được giải (ngoại trừ thủ tướng Rabin) không
phải là những nhà hòa bình. Họ từng là người khủng bố
như Yasser Arafat và Lê Đức Thọ, hay nhà chính trị thực hiện hòa bình như một
nhiệm vụ được giao phó như Henry Kissinger. Ủy Ban chọn lựa quyết định
trao giải để khuyến khích những người trong cuộc tiếp tục con đường thực hiện
hòa bình. Sợ mắc mưu của Ủy Ban hòa bình Nobel đảng Cộng sản
Việt 
Trong bản đề nghị gởi Ủy Ban Hòa Bình Nobel, các dân biểu
Hoa kỳ viết hòa thượng Thích Quảng Độ xứng đáng nhận giải hòa bình vì:
"ngài là người chủ trương đấu tranh và phản kháng bất bạo động trước mọi
sự đàn áp bằng vũ lực." Lá thư của 30 dân biểu Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng:
"Cũng giống như giám mục Desmond Tutu của Nam Phi và đức Đạt Lai Lạt Ma
của Tây Tạng , hòa thượng Quảng Độ là một tấm gương
sáng ngời  trong cuộc tranh đấu cho những
quyền căn bản của  con người là nhân
quyền và tự do tín ngưỡng" Giám mục Desmond Tutu được tặng giải hòa bình
năm 1984 và đức Đạt Lai Lạt Ma năm 1989. 
Ủy Ban trao giải sẽ quyết định như thế
nào trước đề nghị của 30 ông bà dân biểu Hoa Kỳ? Điều này tùy thuộc vào danh sách những nhân vật được đề
cử,  vào dư luận
quốc tế, và vào một yếu tố quan trọng khác là vận động của chính phủ Hoa Kỳ. 
Hành pháp và lập pháp Hoa kỳ trên nguyên tắc độc lập với
nhau, nhưng trong sách lược chung để phục vụ quyền lợi
của quốc gia hai ngành vẫn tham khảo ý kiến, để nếu cần, phối hợp hành động với
nhau. Nói về hai nhân vật Phật Giáo đấu tranh bất bạo động
lỗi lạc thì hòa thượng Thích Huyền Quang và Hòa Thượng Thích Quảng Độ đều xứng
đáng như nhau. Vậy tại sao lại là hòa thượng Quảng Độ
mà không phải là hòa thượng Huyền Quang được đề nghị? Và có thể đó là lý
do chính của cuộc thăm viếng hòa thượng Huyền Quang của vị đệ nhị tham vụ tòa
đại sứ Mỹ 8 ngày trước khi bản đề nghị của 30 vị dân biểu Hoa Kỳ được gởi đến
Ủy Ban chọn giải hòa bình. 
Và một câu hỏi khác. Tại sao Hà Nội cho phép ông David
Young đến thăm hòa thượng Huyền Quang? Lý do "không tham dự vào
chuyện nội bộ của nhau" là lý do Hà Nội vẫn dùng không chút nể nang trong
17 năm qua kể từ ngày hòa thượng Huyền Quang bị bắt để từ chối các yêu cầu thăm
viếng trước đây của Hoa Kỳ và của các nhân vật quốc tế nổi danh khác gồm nhà
báo, nhà ngoại giao và đại diện các tổ chức bất vụ lợi quốc tế. Tháng 10 năm 1998 Hà Nội từ chối không cho phép Ủy Viên đặc biệt
của Liên hiệp quốc đi điều tra về sự thiếu khoan dung trong lĩnh vực tôn giáo
là ông Abdelfattah Amor bất chấp sự bất mãn của dư luận thế giới. 
Vậy phải có một lý do đặc biệt và quan trọng để Hà Nội
đồng ý cho ông David Young đến Quảng Ngãi gặp hòa thượng Huyền Quang. Bản công
bố của các vị dân biểu Hoa Kỳ sau đó là một lý do. Lý do khác có thể là chuẩn
bị cho sự hòa giải giữa chính quyền Hà Nội và giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
Nhất sau khi hòa thượng Quảng Độ được giải hòa bình Nobel, và quan trọng hơn cả
là một  chính sách hợp tác lâu dài giữa
Hoa kỳ và Việt Nam sắp được thành hình. 
Đối với quốc hội Na Uy, giải hòa bình
Nobel là một giải chính trị. Và nếu là chính trị thì ảnh hưởng của Hoa Kỳ trong quyết định không
phải là nhỏ. Nhưng ít nhất đây là một thứ chính trị
vương đạo. (Dec. 1999)
| Trần Bình  | http://www.vnet.org/tbn |