IRAQ, CÁI GÂN GÀ CỦA BUSH
(Phỏng dịch từ  “Seeing Through Iraq”, The Economist,
December 14th – 20th, 2002 – Trần Bình Nam)
 
 
            Câu hỏi chính là:
Hoa Kỳ sẽ đánh Iraq hay không? Các chuyên viên tình báo Hoa Kỳ đang bận rộn
nghiên cứu tài liệu dày trên 12.000 trang Iraq vừa đệ nạp cho Hội đồng Bảo an
Liên hiệp quốc theo tinh thần của bản Nghị quyết 1441. Theo Nghị quyết này Iraq
phải báo cáo với Hội đồng “chính xác và đầy đủ” các chương trình chế tạo
vũ khí hóa học, vi trùng và nguyên tử của mình. Hoa Kỳ nóng lòng nhưng không tỏ
ra vội vàng vì Hoa Kỳ không muốn làm cho thế giới có cảm tưởng rằng vì muốn
đánh Iraq nên không thèm tìm bằng chứng Iraq vi phạm Nghị quyết 1441, mặc dù
cũng không cần phải bỏ công nhiều mới biết bản báo cáo đó nói gì. Iraq vừa gởi tài
liệu đến Liên hiệp quốc vừa tuyên bố họ đã bỏ ý định chế tạo các loại vũ khí
giết người hàng loạt kia lâu rồi.
            Sự quả quyết của
Iraq trái với sự hiểu biết của tình báo Hoa Kỳ và – theo lời của ông bộ trưởng
quốc phòng Mỹ Donald Rumsfeld – trái với sự hiểu biết của bất cứ nước nào có
khả năng tình báo. Nước Anh chẳng hạn, – nhờ tình báo hữu hiệu – đã biết trước
rằng al Quada là thủ phạm đánh bom bằng máy bay làm sập hai tòa nhà chọc trời ở
New York, lần này cũng nhanh chóng tuyên bố có bằng chứng Iraq  có những thứ vũ khí nói trên. Tháng 9/2002
vừa qua ông Tony Blair, thủ tướng Anh đã công bố một hồ sơ về các chương trình
chế tạo vũ khí của Iraq. Ông Blair nói tình báo Anh có bằng chứng Saddam
Hussein đang sản xuất vũ khí hoá học và vi trùng, và đang nỗ lực giải quyết các
khó khăn về kỹ thuật và tiếp liệu để chế tạo vũ khí nguyên tử, và đang tìm cách
tăng tầm bắn của các hỏa tiễn tồn kho. Tài liệu của Anh nói Iraq có 20 hoả tiễn
loại al-Hussein có khả năng mang đầu đạn hóa học và vi trùng và Iraq đã tìm cách
mua uranium ở Phi châu mặc dù Iraq không có một chương trình sản xuất
năng lượng nguyên tử nào cần uranium.
            Nếu George Bush
và Tony Blair nói Saddam Hussein có vũ khí giết người tập thể, trong khi Saddam
nói ông ta không có thì ai đáng tin hơn? Câu trả lời có thể là hiển nhiên vì
Liên hiệp quốc có bằng chứng Saddam Hussein đã nhiều lần nói láo và đã nhiều
lần gạt đoàn thanh tra Liên hiệp quốc trước khi phái đoàn này bực mình rút lui
năm 1998. Hơn nữa các nghị quyết của Liên hiệp quốc ràng buộc Iraq phải chứng
minh không có vũ khí giết người tập thể chứ không phải người khác phải chứng
minh. Tuy vậy, muốn được cộng đồng thế giới ủng hộ, Hoa Kỳ và Anh cũng cần phải
trưng bằng cớ rằng Iraq có.
            Nguyên tắc dân
chủ không cho phép các nhà lãnh đạo các nước dân chủ muốn đánh ai thì đánh và
bảo dân hãy “tin tôi”. Vì cuộc chiến trước mắt với Iraq có nguyên nhân nổi
(khủng bố) và chìm (dầu hỏa) và nếu xẩy ra có những hậu quả khó lường nên trong
thế giới Tây phương không thiếu người không tin những nhà lãnh đạo của mình
thành thật, nghi ngờ tin tức tình báo là ngụy tạo và bản án tố cáo Iraq chỉ là
bày đặt ra vì một ý đồ khác. Cho nên Hoa Kỳ cần phải có bằng chứng để thuyết
phục các nước đồng minh. Nếu ông Rumsfeld nói đúng thì những lãnh tụ các nước
có khả năng tình báo như Jacques Chirac của Pháp, Vladimir Putin của Liên bang
Nga và các nước A rập đồng minh của Hoa Kỳ đều biết (qua tình báo của riêng
mình)  Iraq có (hay không có) những thứ
vũ khí mà Liên hiệp quốc không cho phép Iraq được thủ đắc. Theo tinh thần của
Nghị quyết 1441 nước nào biết gì về các chương trình vũ khí của Iraq đều có bổn
phận chia xẻ với phái đoàn thanh tra Liên hiệp quốc, nhưng Pháp, Nga và các
nước A Rập đồng minh với Hoa Kỳ không muốn có chiến tranh với Iraq nên không
chuyện gì họ phải trưng bằng cớ (nếu họ có). Cho nên quả banh bằng chứng
nằm trên sân của Hoa Kỳ và Anh. 
            Các dấu hiệu cho
thấy trước sau Hoa Kỳ và Anh cũng trưng bằng chứng. Nhưng bằng chứng đó có đủ
sức thuyết phục không là một chuyện khác. 
Ông Tony Blair nói bằng chứng nước Anh có sẽ không làm ai nghi ngờ nữa.
Và biết đâu tình báo Hoa Kỳ hay tình báo Anh sẽ chỉ chỗ cho đoàn thanh tra Liên
hiệp quốc đến tận nơi chứa hỏa tiễn loại quốc tế cấm hoặc một phòng thí nghiệm
vũ khí ngầm nào đó dưới mặt đất. Nhưng sự 
im lặng khó hiểu gần đây của Hoa Kỳ sau khi Saddam lên tiếng thách thức
“tôi nói tôi không có vũ khí giết người tập thể quí vị có bằng chứng thì xin
đưa ra” làm cho người ta nghĩ  không
chắc Hoa Kỳ có khả năng đó. Có thể Hoa Kỳ chỉ chứng minh được rằng bản báo cáo
của Iraq không giải thích được các vật liệu phái đoàn thanh tra Liên hiệp quốc
trước năm 1998 biết Iraq có thí dụ như hàng trăm tấn hóa chất để sản xuất khí
vx làm tê liệt não bộ con người, và hơn 30.000 đầu đạn có thể dùng để phóng vũ
khí hoá chất và vi trùng bây giờ ở đâu.
            Điều rõ ràng nhất
là: Nếu Hoa Kỳ không đưa ra những bằng chứng không chối cãi được thì Hoa Kỳ
không có đồng minh. Tổng thống Bush có thể biện minh rằng Hoa Kỳ không thể làm
lộ nguồn lấy tin và phương pháp tình báo và rằng Iraq là một quốc gia độc tài
nên rất khó lấy tin tức. Lập luận này hữu lý nhưng không thể dùng để thắng trận
giặc tâm lý với Saddam Hussein được. Tình báo là một trò chơi muôn mặt. Nếu
trong tài liệu công bố tháng 9 vừa qua thủ tướng Blair ghi rõ Saddam có những
gì, cất dấu ở đâu thì Saddam dại gì không mang cất dấu chỗ khác. Nếu Saddam
Hussein quả là một con người nguy hiểm như Hoa Kỳ và Anh kết luận thì hai nước
này đã bám sát những gì Saddam làm trong hơn10 năm qua. Và người ta chờ đợi
rằng nỗ lực chung của tình báo Mỹ (CIA), Anh, Do thái (Mossad), và tình báo của
vài nước bạn khác đã phải tìm thấy một cái gì thật cụ thể sau một thời gian
theo dõi dài như vậy. Nếu Anh, Mỹ, Do Thái không tìm thấy gì cụ thể thì làm thế
nào một đoàn thanh tra hơn 100 người của Liên hiệp quốc đi đâu cũng ồn ào xe cộ
với máy bay trực thăng bảo vệ có thể tìm ra vũ khí và phòng thí nghiệm được dấu
kỹ trong một nước rộng mênh mông như 
Iraq?
            Vậy tình huống sẽ
ra sao? Câu trả lời dễ nhất là: sẽ có chiến tranh và không còn lâu.
            Lý do? Một phần vì
tháng Ba (2003) vùng sa mạc Trung đông bước vào mùa hè nóng bức rất trở ngại
cho các cuộc hành quân. Nhưng lý do chính là Hoa Kỳ không muốn để cho sự việc
nguội lạnh. 
Nhưng Hoa Kỳ kẹt vì không thể rút ngắn nghị trình. Khi quyết định
mang sự việc ra Liên hiệp quốc cho Saddam Hussein một cơ hội trả lời, nay
Saddam đã trả lời thì Bush phải trả lời lại. Ông Hans Blix, trưởng đoàn thanh
tra vũ khí chưa báo cáo cho Liên hiệp quốc kết quả của cuộc thanh tra. Nhưng
Saddam đã nói ông ta không có vũ khí cấm đoán. Và vì Hoa Kỳ và Anh quốc không
tin nên diễn trình tự nhiên là Mỹ và Anh sẽ yêu cầu triệu tập Hội đồng Bảo an
để trình bằng chứng rằng Saddam Hussein nói láo, và xin biểu quyết xử dụng vũ
lực (mặc dù Hoa Kỳ và Anh nói rằng một cách hợp pháp họ không cần xin một lần
nữa trước khi hành động).
            Hội đồng Bảo an
Liên hiệp quốc có biểu quyết cho phép Hoa Kỳ đánh Iraq khi Hoa Kỳ xin phép
không? Câu trả lời tùy thuộc vào giá trị các bằng chứng Hoa Kỳ sẽ trình cho Hội
đồng. Mặc dù Nga, Pháp và Trung quốc không muốn có chiến tranh, họ cũng không
thể biểu quyết “không” nếu có bằng chứng hùng hồn rằng Iraq đã một lần nữa qua
mặt dối gạt Liên hiệp quốc. Ngược lại nếu bằng chứng thiếu sức thuyết phục, do
đó Nga, Pháp và Trung quốc không thể bỏ phiếu “thuận” mà Hoa Kỳ và Anh vẫn đơn
phương hành động thì Hoa Kỳ và Anh phải chấp nhận chiến đấu một cách cô đơn
trước dư luận quốc tế bất lợi.
            Tuy nhiên các nhà
theo dõi thời cuộc vẫn trăn trở với câu hỏi. Nếu Hoa Kỳ và Anh quốc không có
cái gì cụ thể trong tay để kết án Iraq thì có lẽ hai nước này đã không mang nó
ra Liên hiệp quốc để Iraq có cơ hội cù nhầy, và cuối cùng cũng phải nuốt chiếc
gân gà đai dách. 
 
The Economist,  Dec. 14th-20th
2002
Trần Bình Nam phỏng dịch
Dec. 22, 2002
 
| Trần Bình Nam | http://www.vnet.org/tbn |