Kết
quả nghiên cứu vấn nạn Iraq của Nhóm Baker – Hamilton:
“Iraq hóa chiến tranh”
Trần Bình Nam
Sáng Thứ Tư
6/12/2006, Nhóm Nghiên Cứu Iraq (Iraq
Study Group – ISG) gồm 10 nhân vật thuộc hai đảng Cộng hòa và Dân chủ (1)
sau khi chính thức chuyển cho tổng thống Bush bản nghiên cứu về tình hình Iraq
đã cho phổ biến đến báo chí qua một cuộc họp báo tại Hoa Thịnh Đốn. Bản nghiên
cứu dài 160 trang bao gồm tất cả mọi khía cạnh của vấn nạn Iraq và các giải
pháp đề nghị.
Bản tường trình gồm 79 đề nghị. Nhưng tựu trung có thể tóm
tắt trong bốn chữ “Iraq hóa chiến tranh”
như chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”
cách đây 38 năm sau cuộc tấn công Mậu Thân, khi Hoa Kỳ biết không thể thắng và
chuẩn bị rút quân. Khác chăng là trong bản văn dài nhóm ISG không hề nhắc đến
bốn chữ nhạy
cảm đó. Hội chứng Việt Nam vẫn là
điều còn làm Hoa Kỳ nhức nhối.
“Iraq hóa chiến tranh” là chiến
lược của nhóm ISG do cựu bộ trưởng bộ Ngoại giao James Baker III cầm đầu và
cũng là con đường tổng thống Bush phải chọn lựa. Từ tướng lãnh đến các viên
chức cao cấp trong ngành ngoại giao đều hiểu tình hình tại Iraq chỉ có một con
đường độc đạo là “Iraq hóa chiến tranh ” và rút lui càng nhanh càng tốt trước
khi quá trễ.
Nhóm ISG đề
nghị:
1. Tăng
cường huấn luyện quân đội Iraq để họ có thể duy trì an ninh ngăn chận một cuộc nội chiến lan rộng.
2. Hoa Kỳ cắt bớt viện trợ nếu chính phủ Iraq không
cải thiện được tình hình.
3. Hoa Kỳ
tái phối trí quân đội (có nghĩa là rút quân) tùy theo
tình trạng an ninh, và sẽ chấm dứt nhiệm vụ tác chiến từ đầu năm 2008.
4. Quan hệ
với Iran và Syria và yêu cầu hai nước này
giúp ổn định tình hình tại Iraq và Trung đông.
5. Hoa Kỳ
cần tìm một giải pháp cụ thể cho cuộc tranh chấp Do Thái - Palestines
6. Tổng
thống Bush cần nhanh chóng hành động trước khi tình hình Iraq trở nên tồi tệ hơn và
những đề nghị của nhóm trở thành vô giá trị.
Nếu nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, vào đầu năm 1968 sau trận
Mậu Thân, tướng William Westmoreland xin thêm 206.000
quân nhưng tổng thống Johnson từ chối. Ông tuyên bố không ra
ứng cử tổng thống nữa, đề nghị hòa đàm với Hà Nội và thi hành kế hoạch Việt Nam hóa
chiến tranh để chuẩn bị rút quân.
Chương trình
Việt Nam hóa chiến tranh chính yếu gồm 3 điểm: (1) tăng cường quân số quân đội Việt Nam Cộng Hòa, (2)
Hoa Kỳ rút quân dần tùy theo sự vững mạnh của miền Nam Việt Nam, và (3)
nhờ Liên bang Xô viết và Trung quốc can thiệp.
Trong hai
chương trình “Việt Nam hóa chiến tranh” và
“Iraq hóa chiến tranh” cái chính là quân đội Hoa Kỳ có thể rút lui, còn
việc huấn luyện quân địa phương để tự bảo vệ chỉ là một cái cớ. Tuy nhiên hai
cuộc “địa phương hóa chiến tranh” để
Hoa Kỳ rút ra khỏi hai cuộc chiến có một khác biệt căn bản.
Công cuộc Việt Nam hóa
chiến tranh có thể thành công nếu Hoa Kỳ khi ký Hiệp định Paris năm 1973
buộc quân đội Bắc Việt phải rút ra khỏi miền Nam. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa
tuy không được lãnh đạo bởi những tướng lãnh tài ba (vì đa số đều được người
Pháp đào tạo qua một chương trình nhẹ và cấp tốc), nhưng các sĩ quan trẻ đào
tạo từ các quân trường lớn ở miền Nam như trường Võ bị Đà lạt, trường Sĩ quan
Hải quân Nha Trang đều là những sĩ quan có khả năng và có ý thức chiến đấu cho
một miền Nam tự do (nhưng rất tiếc chưa có đủ thì giờ để giữ nhiệm lãnh đạo) và
binh sĩ đều là lính thiện chiến. Cuộc tấn công của quân đội Bắc việt trong dịp
Tết Mậu Thân, trong khi 50% quân lính đi nghỉ phép trong thời gian hai bên đồng
ý ngưng bắn và quân đội Hoa Kỳ gần như bất động, quân đội Việt Nam Cộng Hòa
cũng không để mất một đồn bót hay một thành phố nào quan trọng.
Một khác biệt khác cũng cần được nêu ra. Trong
thời gian Việt Nam hóa
chiến tranh, trong khi quân đội Hoa Kỳ rút về dần dần tình hình miền Nam vẫn ổn
định.
Từ chiến trường về binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa cũng như binh sĩ Mỹ có thể thảnh
thơi an toàn tại các thành phố cũng như tại các trại
gia binh.
Tình hình Iraq hiện nay
khác hẳn.
Không một nơi nào tại Iraq người
lính Hoa Kỳ được an toàn, ngoại trừ “vùng xanh” (Green Zone) tại trung tâm Baghdad nơi đóng
tòa đại sứ Mỹ, chính phủ, quốc hội Iraq và bộ tư
lệnh liên quân Hoa Kỳ-Iraq.
Và với đà
bạo loạn hiện nay của cuộc nội chiến giữa giáo phái Shite và Sunni, “vùng xanh”
có thể sẽ không được an toàn bao lâu nữa. Thượng nghị
sĩ John McCain khi đề nghị đưa thêm 20.000 binh sĩ Hoa Kỳ sang Iraq có thể
không phải để chận đứng cuộc nội chiến (vì trên thực tế cuộc nội chiến đã diễn
ra và càng ngày càng khốc liệt) mà để bảo vệ “vùng xanh”. Hoa Kỳ cần có một
vùng an toàn nếu cần phải rút lui trước áp lực.
Không ai
ngạc nhiên thấy những tuần lễ trước khi Nhóm nghiên cứu Iraq công bố công thức giải
quyết cuộc chiến Iraq, tổng thống Bush nhiều lần
tuyên bố “quân đội Hoa Kỳ không rút lui theo một thời
biểu nhất định, và chỉ rút khi nhiệm vụ hoàn thành”. Nhiêm vụ
hoàn thành ở đây có nghĩa là chính phủ Iraq thân Hoa
Kỳ có thể đứng vững. Và điều này là một điều đồng thuận của cả hai
đảng Cộng hòa và Dân chủ.
Trên nguyên tắc Hoa Kỳ sẽ rút quân tùy thuộc vào sự tiến bộ của
công cuộc huấn luyện quân đội Iraq. Nhưng
xác định thế nào là tiến bộ lại là một vấn đề chính trị. Khi nào thấy cần một đợt rút quân (vì tình hình tại chỗ hay vì
những đòi hỏi chính trị trong nước) thì các nhà chính trị nói là đã có tiến bộ.
Đó là chuyện đã diễn ra tại Việt Nam. Các đợt rút quân của Hoa
Kỳ từ năm 1968 đến năm 1973 tùy theo kết quả của cuộc thương thuyết tại Paris,
chứ không liên quan gì đến quân đội Việt Nam Cộng Hòa mạnh hay yếu.
Điều hiển nhiên không thể tránh được là nội chiến sẽ diễn ra tại
Iraq để kiểm
soát quyền hành chính trị khi quân đội Hoa Kỳ không còn đóng một vai trò quan
trọng tại đó. Nhưng Hoa Kỳ sẽ không thể ngoảnh mặt như đã
làm ở Việt Nam, vì Hoa
Kỳ còn những quyền lợi sinh tử tại Trung đông.
Hoa Kỳ sẽ
giúp phe thắng thế trong cuộc nội chiến để duy trì một chính phủ thân Hoa Kỳ ở một mức độ nào đó tại
Iraq. Đó là lý do tại sao thủ tướng Nuri
al-Maliki yêu cầu Hoa Kỳ giao quân đội Iraq cho chính phủ ông, tổng
thống Bush vẫn không chịu giao. Thủ tướng Nuri al Maliki thuộc giáo phái Shite
muốn nằm quân đội để nắm chính quyền tại Iraq sau khi Hoa Kỳ rút lui, nhưng Hoa
Kỳ biết quân đội Iraq (được Hoa Kỳ huấn luyện) không có khả năng đó và có thể
nhóm du kích thuộc giáo pháo Sunni ủng hộ cựu tổng thống Saddam Hussein sẽ cướp
chính quyền sau một cuộc nội chiến ngắn ngủi. Một chính phủ Sunni sẽ là một
chính phủ thù nghịch với Hoa Kỳ, trong khi một chính phủ do người Shite kiểm
soát có nhiều
triển vọng thân Hoa Kỳ hơn.
Nhiệm vụ của Nhóm Nghiên Cứu Iraq cũng
không ngoài mục đích đó. Và đảng Dân chủ vừa kiểm soát quốc hội cũng
sẽ hiểu thông điệp của dân để giải quyết vấn đề Iraq. Dân Mỹ muốn rút ra khỏi
vũng lầy Iraq nhưng dân Mỹ không muốn bỏ
chạy, cũng như không muốn để cho kho dầu hỏa tại Iraq rơi vào tay
một chính phủ thù nghịch.
Và sự khéo léo của hai đảng Cộng Hòa và Dân chủ trong canh bạc Iraq sẽ là
một yếu tố quan trọng trong cuộc bầu cử tổng thống 2008. Không phải không có lý do
khi từ tổng thống Bush đến nhóm ISG đều quả quyết sẽ không ấn định một thời
biểu rút quân, nhưng trong bản nghiên cứu nhóm ISG xác định đầu năm 2008 quân
đội Hoa Kỳ sẽ thôi nhiệm vụ tác chiến tại Iraq. Đầu năm
2008 là thời điểm cuộc tranh cử tổng thống bắt đầu sôi nổi.
Đã có quá nhiều bút mực so sánh hai cuộc chiến Việt Nam và Iraq nên ở
đây tôi không có ý so sánh hai cuộc chiến. Hai cuộc chiến kết thúc
giống nhau qua công thức “Việt nam hóa chiến tranh” và “Iraq hóa
chiến tranh” (một bên minh danh, một bên hiểu ngầm) nhưng bản chất hai cuộc
chiến khác nhau.
Cái khác
nhau đập vào mắt người quan sát là sự liên hệ của Hoa Kỳ đến cuộc chiến Việt
Nam là kết quả của cuộc chiến tranh lạnh và diễn ra một cách tiệm tiến qua
nhiều thời tổng thống Hoa Kỳ. Trong khi cuộc chiến Iraq là do sự tính toán sai
lầm của một số chính khách, vừa thiếu tầm nhìn, vừa thiếu kinh nghiệm lãnh đạo.
Cuộc chiến
Việt Nam có thể thắng nếu Hoa Kỳ không có những McNamara điều khiển chiến tranh
bằng điện toán, không có Henry Kissinger tráo trở, không có Nixon bị vướng vào
vụ Watergate để phải từ chức, không có Ngô Đình Diệm phạm sai lầm về chính sách
tôn giáo, và trong thời Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam có một tướng như de Gaulle của
Pháp hay ít nhất như Pak Chung Hy của Nam Hàn.
Hôm 3/12/2006 báo chí
Hoa Kỳ tiết lộ bộ trưởng quốc phòng Rumsfeld trước cuộc bầu cử ngày 7/11/2006 đã trình tổng thống Bush
một phiếu trình trình bày những quan điểm của ông. Những
quan điểm này khác hẳn với những gì ông từng tuyên bố từ năm 2003 khi quân đội
Hoa Kỳ bắt đầu tiến đánh Iraq. Danh sách đề nghị của ông
khá dài: Ông nói quân đội
Hoa Kỳ đã không thành công ở Iraq, và chính phủ cần chuẩn bị
tâm lý dân chúng cho một sự thay đổi sách lược. Phiếu trình bàn đến việc giảm
quân, tái phối trí quân đội Hoa Kỳ tại Iraq như tập trung quân đội Hoa Kỳ từ 55
căn cứ như hiện nay còn 5 căn cứ và đóng tại những vùng an toàn tại Iraq hay
tại Kuwait để sẵn sàng can thiệp, và cắt ngân khoản tái thiết ở những tỉnh
chính quyền Iraq tỏ ra bất lực.
Hai đề nghị
phụ của Rumsfeld là nếu cần nên kêu gọi một hội nghị quốc tế (như hội nghị Dayton- Ohio để giải quyết tình hình Bosnia năm 1995) và sẵn sàng gởi
thêm quân để giữ an ninh cho Baghdad trước khi sụp đổ.
Phiếu trình của bộ trưởng Rumsfeld làm người ta nhớ đến sự thay
đổi lập trường của bộ trưởng Robert McNamara trong chiến tranh Việt Nam. Nhưng nếu sự thay đổi của
McNamara là do sự nhận thức của chính cá nhân ông sau khi đọc bản tường trình Pentagon (Pentagon Papers)
do chính ông ra lệnh sưu tầm, phiếu trình của bộ trưởng Rumsfeld có thể là một
tính toán nội bộ của đảng Cộng hòa để tìm một đối sách trước sự thất bại hiển
nhiên trước mắt.
Song song
với đề nghị của Nhóm Nghiên Cứu Iraq tổng thống Bush cũng đã ra lệnh cho Hội đồng An Ninh quốc gia, bộ tham
mưu liên quân và bộ Ngoại giao nghiên cứu và đề ra những giải pháp. Tổng thống
Bush muốn có sẵn trong tay nhiều báo cáo và đề nghị để
chọn con đường nào ông nghĩ ít thiệt thòi nhất cho đảng Cộng hòa trong cuộc bầu
cử tổng thống năm 2008. Đó là trang giấy ông muốn dành cho
ông trong lịch sử Hoa Kỳ.
Dù sao vấn đề Iraq xem như
sẽ kết thúc với việc “Iraq hóa
chiến tranh”. Hoa Kỳ sẽ thành công nếu sau một cuộc chém
giết vì nội chiến khó tránh khỏi, một chính phủ Iraq thân Hoa
Kỳ còn tồn tại.
Ngược lại là một thất bại lớn của Hoa Kỳ và Trung đông sẽ trở
thành một cứ địa chống Hoa Kỳ trên thế giới.
Trần
Bình Nam
Dec.
7, 2006
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com
(1) Hai đồng chủ
tịch James Baker III, bộ trưởng
ngoại giao dưới thời tổng thống George H. W. Bush; Lee H. Hamilton, Dân
biểu Dân chủ nguyên chủ tịch ủy ban Ngoại giao Hạ nghị viện; và tám ủy viên: Vernon E. Jordan Jr., cố vấn Bạch Cung dưới thời tổng thống Clinton; Edwin Meese III, bộ trưởng Tư pháp dưới
thời tổng thống Reagan; Sandra Day
O’Connor, nguyên chánh án Tối cao Pháp viện; Lawrence S. Eagleburger, cựu bộ trưởng bộ Ngoại giao (thay thế ông
Robert Gates khi Gates được bổ nhiệm làm bộ trưởng quốc phòng sau khi bộ trưởng
Donald Rumsfeld từ chức); Leon L.
Panetta, Tham mưu trưởng Bạch cung dưới thời tổng thống Clinton; William J. Perry, nguyên bộ trưởng quốc
phòng dưới thời tổng thống Clinton; Charles
S. Robb, cựu Thượng nghị sĩ Dân chủ đại diện bang Virginia, và Alan K. Simpson, nguyên Thượng nghị sĩ
Cộng hòa đại diện bang Wyoming.
Trần Bình Nam
|
http://www.tranbinhnam.com
|