KHỦNG HOẢNG
KINH TẾ NHẬT BẢN:
THẬT HAY GIẢ?
Trần Bình 
Có phải làn sóng khủng hoảng kinh tế tại các nước Đông Nam Á đã
lan tới Nhật Bản? 
Nhiều năm qua nền kinh tế Nhật có dấu hiệu trì trệ nhưng thế giới
nghĩ chưa sao. Nhưng lúc này tình trạng kinh tế Nhật làm thế
giới lo ngại. Dù muốn hay không, sức khỏe của nền kinh
tế Nhật Bản sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế của thế giới nhất là Hoa Kỳ.
Người ta đặt
câu hỏi: tại sao và làm gì? 
Tại sao? Các nhà kinh tế đồng ý rằng dấu hiệu suy thoái
của kinh tế Nhật có đã từ lâu. Mười năm trước Nhật gặp
khủng hoảng trong lĩnh vực nhà cửa. Tiếp theo nhiều ngân hàng gặp khó
khăn vì cho vay quá rộng rãi, bên cạnh tệ trạng có qua có lại, bao che, rất phổ
biến giữa giới tài phiệt, kỹ nghệ gia và chính quyền, nhất là quốc hội. 
Những năm gần đây trước quan ngại của thế giới Nhật thực hiện một
số cải tổ nhưng chỉ nửa vời để làm vui lòng các lực lượng kinh tế khác. Trong thâm tâm người Nhật
nghĩ chưa phải là khủng hoảng mà chỉ là cơn nhức đầu sổ mũi thường lệ. 
Vì chưa tin có
vấn đề nên Nhật không hoàn toàn đồng ý các biện pháp IMF áp đặt khi cho Thái
Lan, Nam Hàn và Indonesia vay tiền để giải quyết khủng hoảng tiền tệ, mặc dù
Nhật đóng góp không ít cho vốn của IMF và đồng ý quyết định cứu nguy của IMF là
cần thiết. Nhật cũng không giúp Thái, Nam Hàn và Indonesia như Nhật có thể làm
bằng cách tăng gia nhập cảng hàng hóa của các nước nói trên để các nước này tái
kích thích kinh tế. 
Nếu kinh tế
Nhật Bản trì trệ sẽ là một vấn đề lớn của Á Châu nói riêng và thế giới nói chung. Nhưng điều đáng lo ngại là các nhà
lãnh đạo Nhật Bản vẫn chưa cho là một vấn đề lớn. Kế hoạch tháo khoán
chi tiêu 120 tỉ mỹ kim của thủ tướng Hashimoto để tạo công ăn việc làm trong
lĩnh vực xây cất - theo các nhà kinh tế Hoa Kỳ và Anh - không đủ sức kích thích
kinh tế Nhật vì thiếu một chương trình giảm thuế đúng mức. Nếu
thuế giảm cầm chừng dân chưa chịu mở hầu bao chi tiêu. 
Người ta tự hỏi tại sao Nhật không tiếp tục hành động để xứng đáng
là một nước đàn anh ở Á châu có thể chơi ngang với Hoa Kỳ như chỉ dẫn trong
những năm gần đây? Thí dụ áp dụng các biện pháp cải tổ rốt ráo có thực chất để chấn
hưng kinh tế quốc gia, đồng thời tận tình giúp đỡ các nước trong vùng đang gặp
khó khăn. 
Lý do đơn giản
nhất được đưa ra là sau khi thua trận Thế giới đại chiến 2 Nhật có thói quen để
Hoa Kỳ giải quyết mọi vấn đề của Á châu. Từ trước đến nay trong lĩnh vực an ninh; và nay là nhiệm vụ giải quyết cuộc khủng hoảng kinh
tế. Lý do khác, người Nhật muốn tái tạo uy tín trên thế giới nhưng không muốn
huy động công sức. Những gì Nhật làm trong những năm qua như tích cực tham gia
các công tác duy trì hòa bình thế giới của Liên hiệp quốc ở Cambodia, và Bosnia
giá rẽ hơn những gì Nhật phải làm để giúp các nước Đông Nam Á vượt qua khó khăn
kinh tế hiện nay. Do đó thủ tướng Nhật Ryutaro Hashimoto chỉ muốn nói đến cải
tổ như một nhu cầu ngoại giao quốc tế và chính trị nội bộ, nhưng trong thâm tâm
chưa muốn cải tổ. 
Một lý do nữa
được đưa ra nói rằng Nhật chưa cải tổ kinh tế vì nếu cải tổ các đại công ti
Nhật phải công bố mọi chi tiết tài chánh một cách đầy đủ hơn các thông tin chứa
đựng trong các báo cáo tài chánh hằng năm hiện nay, điều mà đảng Tự Do Dân Chủ
đang cầm quyền không muốn làm vì có thể đưa ra ánh sáng hành động bây bối mập
mờ của đảng. 
Thế giới lo
lắng đến tình trạng kinh tế và thái độ của Nhật vì, nếu Nhật bị khủng hoảng
thật hay chưa bị khủng hoảng mà chọn thái độ trốn chạy, vấn nạn kinh tế của các
nước Đông Nam Á hiện nay càng có ít phương thuốc hơn. Tiền
của IMF chỉ là một phần của phương thuốc. 
Năm ngoái, khi
mức xuất cảng của Thái Lan trì trệ vì các nước Đông Nam Á giảm nhập cảng, ngân
hàng Industrial Bank của Nhật đã vận động một ngân khoảng 500 triệu mỹ kim cho
các thương gia Thái vay để giữ cho bộ máy mậu dịch của Thái Lan hoạt động với
những điều kiện rộng rãi hơn nếu ngân hàng Hoa Kỳ đứng ra tài trợ. Thống kê còn
cho thấy giữa thập niên 90, Nhật Bản đầu tư ít nhất từ 40 đến 60% vào các kế
hoạch tại Á Châu, từ Hồng Kông, đến Phi Luật Tân và Indonesia, và đóng góp
không nhỏ vào sự phồn thịnh kinh tế của các quốc gia này. 
Nay Nhật lấy
lý do đồng Yen xuống giá không còn điều kiện để trải tiền ra như trước. Đồng
thời Nhật giảm đầu tư tại các nước Đông Nam Á, và giảm ở cả Trung quốc là nơi
có nhiều triển vọng nằm ngoài cơn chấn động kinh tế Á châu hiện nay. 
Có thể chính
sách của Nhật đối với cuộc khủng hoảng tại các nước Đông Nam Á và một vài biện
pháp kinh tế sai lầm của chính phủ đãlàm cho Nhật Bản không tránh được cuộc
khủng hoảng Nhật nghĩ còn xa? Tăng thuế trực thu hàng
bán lẻ làm dân chúng không muốn chi tiêu và sự giảm nhập cảng hàng của các nuớc
Đông Nam Á là hai nguyên nhân chính đưa đến việc kinh tế Nhật Bản từ suy thoái
chuyển qua khủng hoảng. 
Trước thời
gian khủng hoảng số tiền Nhật thu được do xuất cảng
tại Á châu bằng của 250% Hoa Kỳ hay Aâu châu. Nhưng trong 3 tháng cho đến tháng
2/98 sức sản xuất kỹ nghệ của Nhật giảm 6% so với 3 tháng trước đó, và GDP của
Nhật được tiên đoán sẽ giam trong năm 1998, một hiện tượng quan ngại vì trong
20 năm qua GDP của Nhật chỉ tăng không giảm. Kết quả, chỉ số
thất nghiệp tăng, dân giảm tiêu xài, sản xuất càng giảm, kinh tế càng trì trệ.
Vấn đề là: Cái
gì sẽ đến với thế giới nếu GDP của Nhật giảm nhiều hơn con số ước đoán ở mức
0.3%. Nếu GDP Nhật giảm nặng hơn thì đà tăng trưởng của Hoa Kỳ và của cộng đồng
Aâu châu dự tính 2.7% sẽ không thể thực hiện và Hoa Kỳ và cộng đồng kinh tế Aâu
châu sẽ không tránh được suy thoái, dù nhẹ. 
Nhưng các nhà
kinh tế không bi quan ngay cả khi Nhật Bản thoái trào, vì tuy được xem là một
nền kinh tế khổng lồ GDP của Nhật chỉ bằng 13% GDP của cả thế giới, và Nhật
cũng không có trọng lượng như người ta có thể tưởng tượng đối với mậu dịch quốc
tế. Giá trị xuất cảng của Hoa Kỳ đến Nhật chỉ bằng 1% GDP của Hoa Kỳ, và của
Aâu châu chỉ bằng .5%, và hàng Nhật nhập cảng vào Mỹ và cộng đồng Aâu châu chỉ
trong khoảng từ 1-2%. Hơn nữa trong 6 năm qua kinh tế Nhật đã bớt phồn thịnh,
tăng trưởng cầm chừng trong tỉ số 1.3% (thay vì 2.5% như thập niên trước) nhưng
đã không ảnh hưởng gì nhiều đến kinh tế Hoa Kỳ và Aâu châu. Trong khi kinh tế
Nhật dậm chân, kinh tế Hoa Kỳ và Anh quốc tăng trưởng, sung sức, các quốc gia
Nam Mỹ khá giả, các con rồng nhỏ Đông Nam Á vẫn vẫy
vùng. Nhiều kinh tế gia lạc quan cho rằng kinh tế Nhật Bản nếu khủng hoảng có
thể là một điều tốt giúp Hoa Kỳ tránh bệnh tăng trưởng kinh tế không kềm chế
được. Hoa Kỳ và Aâu châu đã thành công trong việc giảm thâm thủng ngân sách và
kiểm soát lạm phát, do đó Hoa Kỳ và Aâu châu có khả năng giảm lãi xuất ngân
hàng và giảm thuế để kích thích kinh tế trong nước nếu cuộc khủng hoảng kinh tế
của Nhật trở nên nặng nề. 
Về mặt đó, ít ai lo ngại sự sụp đổ của kinh tế Nhật Bản. Cái người
ta lo là ảnh hưởng tâm lý và thái độ của các nhà chính trị. Thứ nhất
đồng Yen giảm, hàng Nhật rẻ, các nhà chính trị mị dân sẽ hô hào bế môn tỏa cảng
chận hàng Nhật; thứ hai là ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán. Đối với đa số dân chúng trên thế giới Nhật Bản là một khổng lồ kinh
tế. Tin không tốt về kinh tế Nhật Bản sẽ làm cho thị
trường chứng khoán xuống dốc, và Hoa Kỳ sẽ bị ảnh hưởng đậm nhất. Trong
10 năm qua số người Mỹ mua chứng khoáng tăng gấp đôi hoặc trực tiếp hoặc qua
trung gian các Quỹ hưu bỗng. Chứng khoán giảm, túi của người Mỹ càng ít tiền.. 
Vậy phải làm gì? Người ta cho rằng các khó khăn tài chánh của Nhật một phần do sự
lựa chọn có tính toán của Nhật. Trong một bài viết về tình trạng tài chánh bê
bết của Nhật hiện nay, ông Edward J. Lincoln, một chuyên viên nghiên cứu các
chính sách đối ngoại thuộc Viện Brookings khuyến cáo chính phủ Hoa Kỳ tăng
cường áp lực đối với Nhật để quốc gia này tham gia hơn vào công
việc chung của thế giới. 
Nhưng ông
Edward Lincoln quên một điều, người Nhật nếu tùng phục Hoa Kỳ chỉ vì có lợi cho
Nhật. Khi tính toán quyền lợi lâu dài, nước Nhật không phải là một quốc gia dễ
bảo. (May 1998)
____________________________
Tài liệu tham
khảo: 
1. "
2. "If 
3. "Out of 
| Trần Bình  | http://www.vnet.org/tbn |