Kinh Tế Thế Giới 1999:
Khủng
Hoảng Hay Ổn Định?
Trần Bình 
Đầu năm 1998, mặc dù khủng hoảng kinh tế đang thổi qua Đông
nam á, người ta vẫn tin rằng cuộc khủng hoảng đó sẽ không ảnh hưởng đến kinh tế
của Tây Âu, Liên bang Nga và nhất là của Trung quốc và Hoa kỳ. 
Nhưng vào những tháng cuối cùng của năm
1998, có dấu hiệu cho thấy khủng hoảng kinh tế sẽ không tha bất cứ một quốc gia
nào, kể cả Hoa Kỳ và Trung quốc. Một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang đe dọa thế giới vào
những năm cuối cùng của thập kỷ 20. 
Năm 1931 khi cơn khủng hoảng kinh tế 1929 đang hoành hành,
kinh tế gia John Maynard Keynes cho rằng tiên đoán của Karl Marx về sự cáo
chung của chủ nghĩa tư bản đã đến. Và hiện nay, trước cơn khủng hoảng có cơ đe
dọa kinh tế toàn cầu, người ta lại hỏi: phải chăng nền kinh tế tư bản đến hồi
cáo chung? (1) 
Bức tranh thế giới thật bi quan. Kinh tế Nhật Bản có dấu hiệu thiếu khỏe mạnh từ nhiều năm
trước và giữa năm 1997 các nước Đông nam á đua nhau rơi vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế, bắt đầu với Thái Lan, Nam Hàn, rồi đến Indonesia. Cuối tháng
8/98 đến phiên Liên bang Nga. Mười tám trong 20 ngân hàng Nga
vỡ nợ, thị trường chứng khoán và đồng rúp mất giá (2). Trung quốc vẫn còn giữ vững giây cương kinh tế nhưng người ta chưa
biết khi nào Trung quốc phá giá đồng quan để cứu vãn khả năng xuất cảng.
Trong khi đó đồng đô la Hồng Kông đang bị áp lực nặng nề nếu muốn giữ giá và
Nam Mỹ đang lung lay. 
Kinh tế của các nước phát triển như Anh
quốc và 
Theo tiên đoán của ngân hàng J.P.Morgan (lớn hàng thứ tư của
Hoa Kỳ) độ tăng trưởng của Hoa Kỳ trong năm 1999 và năm 2000 chỉ nhích trong
giới hạn từ 1.5% đến 1.7%. Và không ai quên đó cũng là độ tăng trưởng kinh tế
Hoa Kỳ trước cuộc khủng hoảng kinh tế trong các năm 1981, 1982. Nếu trong vòng
12 tháng tới kinh tế Á châu không phục hồi, kinh tế Mỹ thoái trào và kinh tế
Trung quốc khủng hoảng thì sẽ có một cuộc khủng hoảng toàn diện trên thế giới
chẳng khác gì cuộc khủng và kinh tế thế giới năm 1929. 
Sau gần 18 tháng khủng hoảng, các phương thuốc của Quỹ Tiền
tệ Quốc tế (IMF) bắt đầu mang lại vài dấu hiệu khích lệ tại Đông á, nhưng vẫn chưa
có triệu chứng phục hồi. Thái Lan đã đóng cửa 56 cơ sở
tài chánh bất xứng, nhưng còn hàng trăm triệu mỹ kim tiền cho vay chưa thu lại
được. Nam Hàn quốc hữu hóa các ngân hàng lớn, nhưng việc tái
cấu trúc các đại công ti có thể tạo ra nạn thất nghiệp. Mã Lai Á ổn định được tiền tệ với giá tự cô lập với thị trường tài
chánh quốc tế. Quốc hội Nhật Bản đã thông qua luật cho
phép chính phủ chi tiền giải quyết nạn chạy nợ, nhưng dân Nhật chưa yên tâm nên
vẫn chưa muốn chi tiêu (3). 
Đó là chưa nói đến kinh tế của liên bang Nga. Nga chỉ chiếm
2% sản xuất của thế giới nên khủng hoảng tại Nga không ảnh hưởng nhiều đến kinh
tế chung, nhưng tác dụng tâm lý sẽ rất lớn lao, và
nhất là ảnh hưởng đến giá dầu hỏa trên thế giới. Và căn bệnh khủng hoảng cũng
đang dòm ngó Đông 
Khủng hoảng kinh tế tại Á châu và Liên bang Nga có hai con
đường truyền bệnh đến các nền kinh tế khác. Đông á nhập cảng
nhiều nguyên liệu và hàng hóa. Kinh tế trì trệ, hàng hóa ít người mua,
giảm giá, ảnh hưởng đến kinh tế của các quốc gia chế biến như Úc châu và
Canada, Hoa Kỳ ]hãng Lindsay sản xuất máy bơm nước nông nghiệp bán ra nước
ngoài giảm 14% trong tam cá nguyệt thứ ba từ tháng 6 đến tháng 9/1998 (4)].
Trong khi đó Liên bang Nga vì cần tiền có thể bán đổ bán tháo nhiên liệu làm
cho các nước sản xuất nhiên liệu khác bị ảnh hưởng. Con đường thứ hai là ảnh
hưởng đến sự tin cậy của các nhà đầu tư. Họ sẽ rút tiền đầu tư ở mọi nơi để mua trái phiếu của Hoa Kỳ cho
chắc ăn (1). 
Trong tình thế hiện nay kinh tế thế giới
nằm trên đôi vai của Hoa Kỳ và Tây Âu, hai khối kinh tế chiếm 2/5 khả năng sản
xuất của thế giới. Trong năm nay cả hai
khối tăng trưởng trong mức độ lành mạnh 3%, nhưng người ta không biết chừng nào
thì ảnh hưởng khủng hoảng sẽ đến viếng Hoa Kỳ. 
Vào những ngày cuối cùng của tháng 10/98 phía lạc quan dựa
trên độ tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ trong đệ tam tam cá nguyệt (từ tháng 6 đến
tháng 9/98) là 3.3% tức gần gấp đôi với độ tăng trưởng 1.8% trong tam cá nguyệt
trước (từ tháng 3 đến tháng 6/98) để nghĩ rằng kinh tế Hoa Kỳ sẽ nằm ngoài vòng
ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới như một phép lạ (5). 
Tuy nhiên những dấu hiệu khích kệ trên có thể chỉ là chuyện
nhất thời do sự lạc quan của giới tiêu thụ. Ông Greenspan giám đốc Ngân hàng Dự
trữ Hoa Kỳ (Federal Reserve Bank) có lẽ vì tiên liệu nền kinh tế Hoa Kỳ trước
sau cũng rơi vào tình trạng trì trệ do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tại Á
châu nên trong tháng 10/98 giảm lãi xuất hai lần để các cơ sở tài chánh đừng
quá ngần ngại khi cho vay tiền và khuyến khích giới tiêu thụ chi tiêu (4).
Quyết định này giúp thị trường chứng khoán tăng vọt, và trong những tháng cuối
năm 1998 nhu cầu mua bán đón lễ Tạ ơn, lễ Giáng sinh và ăn mừng năm mới làm cho
nền kinh tế Hoa Kỳ sẽ có một bề ngoài vững vàng. Nhưng nhiều người tin mùa Đông
đầu năm 1999 sẽ là một mùa Đông buồn của Hoa Kỳ. Nhất là nếu thời tiết mùa Đông
năm nay trở nên khắc nghiệt như các chuyên viên thời tiết tiên đoán. 
Tờ tuần báo Washington Post số ngày 
Và một câu hỏi khác: nếu có suy thoái, thì suy thoái ở mức
độ nào? Các nhà kinh tế tiên đoán mức tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ năm 1999 nằêm
trong khoảng từ 1.5 đến 2%.. Riêng
ngân hàng Morgan bi quan hơn cho rằng ít nhất trong sáu tháng đầu của năm 1999,
nền kinh tế Hoa Kỳ sẽ suy thoái nặng thay vì dậm chân tại chỗ. Kinh tế
gia Bruce Steinberg của công ti Merrill Lynch tiên đoán khả năng suy thoái kinh
tế vào năm 1999 là 30%, một con số tuy nhỏ nhưng khoảng đầu năm 1998 không một
kinh tế gia nào bi quan nghĩ như vậy (4). 
Còn Trung quốc? Trước tình trạng kinh tế chung của
thế giới điều người ta mong ước không phải là Trung quốc cứu thế giới mà chỉ
mong kinh tế Trung quốc không suy sụp. Với thị trường 1 tỉ
người sự suy sụp sẽ thêm một gánh nặng cho kinh tế thế giới. Tuy nhiên hy vọng này cũng mỏng dần. Những năm gần đây nói
về Trung quốc các câu hỏi thường là: nền kinh tế mạnh của Trung quốc đe dọa an ninh thế giới đến mức độ nào? Trung quốc có hội nhập vào
ổn định kinh tế chung của địa phương và thế giới
không? Khai thác thị trường cả tỉ người của Trung quốc như
thế nào cho có lợi nhất? Thì bây giờ câu hỏi chính là: Kinh tế Trung
quốc mong manh đến mức độ nào? Người ta lo sợ một sư sụp đổ
của nền kinh tế Trung quốc sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phục hồi của các nền
kinh tế Đông á châu và thế giới. Và nếu sự suy sụp
kinh tế Trung quốc đưa đến rối loạn chính trị thì ảnh hưởng đối với thế giới
càng to lớn hơn. 
Giang Trạch Dân hiểu địa vị chính trị của
ông lệ thuộc vào ổn định kinh tế nên ông hết sức để tâm tìm mọi phương thuốc
ngăn ngừa. Về mặt tâm lý chính phủ Trung
quốc loan báo quyết tâm giữ đà tăng trưởng 8% cho năm 1998 và năm 1999 mặc dù
ai cũng biết không thực hiện được. Mức tăng trưởng trong 9
tháng đầu năm 1998 là 7.2%, và năm 1999 đà tăng trưởng lạc quan nhất Trung quốc
có thể thực hiện là 5%. (7). Về mặt thực tế chính phủ tung
nguồn tài chánh dự trữ vào các chương trình xây cất và chi tiêu công cộng, và
tạo niềm tin cho giới kinh tế tài chánh quốc tế để giữ vững số tiền đầu tư. Chính phủ Trung quốc hứa không giảm giá đồng quan và đồng đô la
Hồng Kông để yên lòng thế giới. Giảm giá đồng quan hàng Trung quốc bán
ra rẻ hơn sẽ làm cho hàng hóa các nước Đông á không thể cạnh tranh, do đó kinh
tế các nước Đông á càng khó phục hồi. Nhưng nếu tình hình kinh tế chung của thế giới xuống thấp mức xuất cảng của Trung quốc
giảm, Trung quốc sẽ không ngần ngại phá giá đồng quan để tăng xuất cảng. Giang Trạch Dân và tân thủ tướng Zhu Rongji hiểu tâm lý của thợ
thuyền Trung quốc. Sau gần 20 năm sống trong sự thoải
mái của một nền kinh tế phục hồi họ sẽ không chấp nhận một tình trạng kinh tế
khó khăn kéo dài quá lâu trước khi bày tỏ bất mãn. Năm 1997 Giang Trạch
Dân chính thức ban hành (và tháng 3/1998 vừa rồi thủ tướng Zhu Rongji nhắc lại)
chính sách cải tổ, đặc biệt đối với lĩnh vực quốc doanh, Nhưng chỉ trong một
thời gian ngắn trước dấu hiệu trì trệ và thất nghiệp gia tăng (do chính sách
cải tổ) Giang Trạch Dân đành ngưng chương trình cải tổ lĩnh vực quốc doanh. Họ Giang không muốn thợ thuyền bất mãn. 
Giang Trạch Dân có thành công không? Người ta mong Giang thành công để tránh
một vấn nạn cho thế giới nhưng thực tế rất khó khăn. Hệ thống ngân hàng
Trung quốc có tất cả các nhược điểm của Nam Hàn và 
Các chỉ dấu đều cho thấy nền kinh tế của Hoa Kỳ, Trung quốc
và Tây âu có thể trải qua một thời gian khó khăn và thế giới sẽ đi vào một cơn
khủng hoảng kinh tế lớn như năm 1929. 
Tuy nhiên người ta nghĩ rằng trong thập niên
các nhà kinh tế và chính trị gia chưa có đủ hiểu biết và chưa có phương tiện
truyền thông như hiện nay để có thể lấy những quyết định đúng lúc, và đúng qui
luật như điều chỉnh lãi xuất và điều chỉnh độ thâm thủng của ngân sách. Lãi xuất thấp giúp sinh hoạt kinh tế và một ngân sách thâm
thủng tạo công ăn việc làm. Hiện nay người ta ghi nhận
có những hiện tượng giống như trước thời kỳ khủng hoảng 1929 như hàng hóa bỗng
mất giá và giá chứng khoán lên quá cao, nhưng cũng có nhiều sự việc khác nhau
(1): 
Thứ nhất, hồi thập niên 1930 tiền bạc dính
liền với trữ lượng vàng làm cho việc thay đổi chính sách tiền tệ để đáp ứng với
cuộc khủng hoảng thiếu mềm dẽo cần thiết.
Thứ hai các chính phủ liên hệ thi hành các
chính sách tiền tệ và thuế khóa sai lầm.
Thay vì giảm thuế cho dân khi lợi tức giảm, năm 1932 chính phủ Hoa Kỳ tăng thuế
để tăng lợi tức quốc gia. Lúc này chính phủ hiểu rõ tác động kinh tế của thuế
má và biết rằng thâm thủng ngân sách do tăng chi tiêu công cộng có thể tăng sản
lượng quốc gia. 
Khác biệt thứ ba là hiện nay thế giới có khối G7 và IMF là
những cơ chế theo dõi nền kinh tế thế giới và có khả
năng thi hành một số chính sách ảnh hưởng. IMF là một cơ sở tài chánh quốc tế
được thành lập năm 1944 do đề nghị của Hoa Kỳ có nhiệm vụ ngăn chận các cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới, khuyến khích phát triển và hợp tác quốc tế, và công
việc thường thấy là trợ giúp nhất thời các quốc gia đang bị khủng hoảng để qua
cơn khó khăn. Tuy năm qua IMF bị phê bình áp đặt các điều kiện cải tổ kinh tế
cho Thái Lan, Nam Hàn và Indonesia quá gắt gao trong một không khí đang xáo
trộn nên nhất thời làm giảm sinh hoạt kinh tế làm cho cuộc khủng hoảng có vẻ
trở nên trầm trọng hơn, nhưng sau cú "sốc" ban đầu và các điều chỉnh
cần thiết, người ta đồng ý rằng IMF đã làm nhiệm vụ của mình một cách thích
đáng. 
Khác biệt sau cùng là chính sách bảo vệ
công nghiệp (protectionism) không còn được xem là phương thuốc chống khủng
hoảng như người ta tưởng. Tháng 6 năm
1930 tổng thống 
Dù kinh tế thế giới diễn biến thế nào
trong những năm còn lại của thiên kỷ này, kinh tế thị trường và chủ nghĩa tư
bản sẽ trải qua một thử thách lớn. 
Nếu khủng hoảng xảy ra mang khổ đau đến cho nhân sinh trên
thế giới như cuộc khủng hoảng thập niên 1930 nó chứng minh rằng kinh tế thị
trường là một chu kỳ lên xuống không ai kiểm soát được bất chấp hiểu biết và
tác động của con người và bên cạnh lợi ích không chối cãi tang tóc do nó mang
lại lúc nào cũng nằm chờ ngoài cửa. 
Ngược lại nếu các nhà chính trị và kinh tế gia ổn định được
nền kinh tế thế giới, thế giới sẽ có khuynh hướng can thiệp vào thị trường
(market intervention) và kiểm soát vốn liếng (capital controls) tức đụng chạm
đến các nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường. Một vài dấu hiệu xuất hiện:
Hồng Kông đang can thiệp vào giá cả của thị trường
chứng khoán. Mã lai á kiểm soát sự chuyển dịch của vốn liếng.
Và tại Hoa Kỳ một số kinh tế gia nổi danh đang lớn tiếng ca
ngợi sự kiểm soát vốn (1). 
Tóm lại, nếu kinh tế thị trường là một món
hàng mất giá, chủ nghĩa tư bản sẽ được đặt thành vấn đề. Và vì chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ, một
mô thức mới sẽ được xuất hiện. Người ta chưa thể hình dung nó trắng,
đen, xanh, đỏ như thế nào nhưng nó sẽ không phải là anh em của chủ nghĩa tư bản
hay chủ nghĩa cộng sản. (Nov. 1998)
  
Tài liệu tham khảo: 
1.- " The World
Economy on the Edge", The Economist, 
2.- "Russian
Roulette" Newsweek, 
3.- "Still Pacific
Grim?" by Steven 
4.- "Did Someone
Say Recession?" by Tim Smart. The 
5.- "Economic
Growth in Third Quarter" by Sylvia Nasar, New York Times, 
6.- "A Slowdown in
Job Growth" by Martha M. Hamilton, The 
8.- "Will 
9.- "
| Trần Bình  | http://www.vnet.org/tbn |