Kinh Tế Việt Nam Đang Phục Hồi?

 

Trần Bình Nam

Giữa năm 1997 khi cuộc khủng hoảng kinh tế Á Châu bắt đầu, thế giới lo sợ ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu, và rất bi quan về tương lai của kinh tế Việt Nam. Hai nước được lưu tâm quan sát nhất là Hoa Kỳ và Trung quốc. Thứ đến là Âu châu và Liên bang Xô viết. Nhưng ảnh hưởng xấu của cuộc khủng hoảng kinh tế Á châu không lan nhanh và trầm trọng như người ta lo ngại. Điều người ta sợ nhất là xáo trộn tiền tệ tức thì trong thời đại điện tử, nhưng - như một phép lạ - một năm sau, tháng 7 năm 1998 đồng Rúp của Liên bang Nga mới bị phá giá, và 6 tháng sau nữa mới đến lượt đồng Riu của Brazil. Cả hai nền kinh tế này đều nhỏ so với kinh tế toàn cầu nên không tạo ảnh hưởng gì đối vối thị trường tiền tệ thế giới. Trong lúc đó nền kinh tế Hoa Kỳ vẫn vững mạnh như lúc nào, và kinh tế Trung quốc vẫn bình thường như không có cuộc khủng hoảng.

Vào khi đồng Riu của Brazil mất giá vào đầu năm 1999, thì cũng là lúc kinh tế các nước Đông Âu có dấu hiệu phục hồi. Trước hết Nam Hàn, theo chân là Thái lan, Mã Lai Á, Singapore và Phi Luật Tân. Việt Nam là quốc gia đặc biệt nhất trong cuộc khủng hoảng này.

Những năm giữa thập niên 1990 Việt Nam chuyển mình vào kinh tế thị trường nhưng trên căn bản vẫn là một quốc gia chậm tiến chưa hội nhập hoàn toàn vào bộ máy kinh tế toàn cầu nên trước cơn bão táp kinh tế các nhà lãnh đạo Việt Nam quyết định đóng cửa thu mình lại chờ cơn gió lớn đi qua. Khi đầu tư từ các nước Đông Á giảm, Việt Nam tìm các nguồn đầu tư mới từ các nước Âu châu, Hoa Kỳ và huy động vốn trong nước. Việt Nam chấp nhận trì trệ kinh tế, không nghe khuyến cáo thi hành các biện pháp cởi mở hơn nữa của các cơ sở tài chánh quốc tế và các quốc gia viện trợ (1).

Qua năm 1998 sự trì trệ kinh tế Việt Nam trở thành đề tài nóng bỏng nội bộ, nhưng lãnh đạo Việt Nam vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Qua năm 1999 khi kinh tế các nước Đông Á chuyển mình vươn lên Chính trị bộ đảng Cộng sản Việt Nam thấy có một cơ hội nên quyết định nhượng bộ áp lực thế giới để bắt đầu một cuộc đổi mới thứ hai. Thỏa ước Mậu dịch Song phương với Hoa Kỳ được đạt đến nhanh chóng trong không khí này (1).

Người ta đưa ra nhiều lý do giải thích sự vãn hồi kinh tế của các nước Á châu. Và danh từ phép lạ lại được nêu ra. Lý do thứ nhất, trong thời gian khủng hoảng tại Đông Á, nhờ kinh tế sung mãn dân chúng Hoa Kỳ không quan tâm đến sự cạnh tranh của hàng hóa Á châu với giá rẻ, vẫn nhập cảng và mua dùng, không biến thành một vấn đề chính trị vì sự cạnh tranh của hàng nước ngoài làm mất công ăn việc làm của thợ thuyền trong nước (2).

Lý do thứ hai là không có xáo trộn chính trị lớn tại Á châu, nhất là tại Trung quốc nhờ các nhà lãnh đạo Á châu dày dạn kinh nghiệm chính trị và nắm vững qui luật kinh tế toàn cầu. Sau một thời gian áp dụng biện pháp thắt lưng buộc bụng để ổn định giá cả, các quốc gia Đông Á áp dụng các chính sách cởi trói tài chánh cần thiết để tạo điều kiện cho sự phục hồi (2). Riêng tại Indonesia sinh viên xuống đường và lật đổ không đổ máu chế độ gia đình trị của tổng thống Suharto trước khi tạo ảnh hưởng xáo trộn tại các quốc gia khác trong vùng.

Việt Nam, hay nói cách khác, đảng cầm quyền tại Việt Nam lại gặp may lần thứ hai, sau cuộc may mắn thứ nhất không sụp đổ khi hệ thống Xô viết sụp đổ năm 1989. Vào lúc đám mây mù đang bủa vây nền kinh tế Việt Nam thì bầu trời lại sáng sủa. Trong cuộc thương thuyết không ngừng nghỉ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong tháng 7/1999 để đạt đến thỏa ước Mậu Dịch Song phương, có lẽ cả hai bên đều thấy có nhu cầu chuẩn bị cho chuyến bay tới của nền kinh tế Việt Nam.

Có khá nhiều dấu hiệu kinh tế Việt Nam đang dần phục hồi.

Theo Nha Nghiên cứu và Thống kê của Hà nội lợi tức đầu người tại Việt Nam trong năm 1998 là $248 mỹ kim tức tăng 250% so với lợi tức năm 1993, trong đó lợi tức của dân thành phố tăng 370%, dân sống ở thôn quê tăng 200% (3). Với lợi tức đầu Người đó Việt Nam được sắp hạng thứ 133 trong 174 nước trên thế giới (4).

Việt Nam cũng tăng xuất cảng trong 8 tháng đầu của năm 1999 lên con số 7.2 tỉ mỹ kim, tăng 15% so với cùng thi gian năm 1998 (5). Tuy nhiên mức tăng xuất cảng không bù được mức tăng nhập cảng so với cùng thời gian năm trước.

Để chuẩn bị cho việc đầu tư của nước ngoài, Việt Nam ấn định lương tối thiểu của nhân công không có chuyên môn làm việc cho các công ti ngoại quốc trong nước là 50 mỹ kim mỗi tháng tại Hà Nội và Sàigòn; ở ngoại ô hai thành phố này là 44 mỹ kim, và ở các nơi khác trên toàn quốc là 39 mỹ kim, áp dụng kể từ ngày 1/7/99 (6).

Chính phủ Việt Nam trong tháng 8/99 tu chính Luật Khuyến khích Đầu tư Quốc nội, thiết lập thêm Quỹ Khuyến khích Phát triển, Quỹ Khuyến khích Xuất cảng và Quỹ Yễm trợ Kỹ thuật và Khoa học liên hệ đến phát triển (7).

Cách thức đánh thuế các công ti đầu tư tại Việt Nam được sửa đổi và áp dụng từ ngày 1/1/99 để khuyến khích đầu tư theo thông tư số 169 (8). Tiền thưởng các công ti đầu tư có thể trả cho thành phần Việt Nam trung gian được ấn định ở mức 0.8% để tránh những số tiền lớn đút lót trước đây để được ký giao kèo làm nản lòng các công ti muốn đầu tư tại Việt Nam. Thông tư số 169 sẽ không áp dụng cho các nhà đầu tư Hoa Kỳ sau khi Thỏa ước Mậu dịch song phương được hai quốc hội Việt- Mỹ phê chuẩn và thi hành.

Sự phục hồi của nền kinh tế Việt Nam trong nền thịnh vượng chung trở lại của Á châu tuy là một quá trình kinh tế lên xuống tự nhiên, một phần cũng nhờ những ý kiến cải tổ kinh tế đúng lúc và bạo dạn của Ủy viên Chính trị bộ kiêm Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Dũng đã thuyết phục Chính trị bộ đảng Cộng sản Việt Nam lấy những quyết định cần thiết, mà quan trọng nhất là thỏa thuận trên nguyên tắc ký thỏa ước Mậu dịch Song phương với Hoa Kỳ.

Vấn đề còn lại là cuộc đổi mới kinh tế thứ hai này đi xa đến đâu? Một phần sẽ do những rủi may của nền kinh tế toàn cầu: Nhật Bản phục hồi ra sao? Kinh tế Hoa Kỳ có sung mãn lâu dài nữa không? Cuộc cãi vã giữa Trung quốc và Đài Loan có đưa đến chiến tranh không? Con ngựa bất kham Bắc Hàn có trở chứng không? Và câu hỏi quan trọng nhất là ảnh hưởng của Nguyễn Tấn Dũng đối với Chính trị bộ của đảng cộng sản đến mức độ nào? (Sept. 1999)

 

1.         U.S. - Vietnam Relations (VNForum), by Carlyle A. Thayer

2.         Asia's bounce-back, (The Economist, August 21 - 27th. 1999)

3.         Bản tin AP ngày 28/8/99).

4.         Báo cáo của Ủy ban phụ trách các chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (United Nations Development Programme) ngày 13/7/99.

5.         Bản tin VN News Agency ngày 1/9/99.

6.         Nghị Định ngày 15/6/99 của Bộ Lao động, Thương binh & Xã hội.

7.         Vietnam Economic Times ngày 10/8/99.

8.         Thông tư số 169 do bộ Tài chánh Việt Nam ban hành ngày 22/12/98. 

 


Trần Bình Nam

http://www.vnet.org/tbn