Kinh Tế Việt 
 
Trần Bình 
Giữa năm 1997 khi cuộc khủng hoảng kinh tế Á
Châu bắt đầu, thế giới lo sợ ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu, và rất bi quan
về tương lai của kinh tế Việt 
Vào khi đồng Riu của 
Những năm giữa thập niên 1990 Việt Nam chuyển mình vào kinh tế
thị trường nhưng trên căn bản vẫn là một quốc gia chậm tiến chưa hội nhập hoàn
toàn vào bộ máy kinh tế toàn cầu nên trước cơn bão táp kinh tế các nhà lãnh đạo
Việt Nam quyết định đóng cửa thu mình lại chờ cơn gió lớn đi qua. Khi đầu tư từ các nước Đông Á giảm, Việt 
Qua năm 1998 sự trì trệ kinh tế Việt 
Người ta đưa ra nhiều lý do giải thích sự vãn hồi kinh tế của
các nước Á châu. Và danh từ phép lạ lại được nêu ra.
Lý do thứ nhất, trong thời gian khủng hoảng tại Đông Á, nhờ kinh tế sung mãn
dân chúng Hoa Kỳ không quan tâm đến sự cạnh tranh của hàng hóa Á châu với giá
rẻ, vẫn nhập cảng và mua dùng, không biến thành một vấn đề chính trị vì sự cạnh
tranh của hàng nước ngoài làm mất công ăn việc làm của thợ thuyền trong nước
(2). 
Lý do thứ hai là không có xáo trộn chính trị lớn tại Á châu,
nhất là tại Trung quốc nhờ các nhà lãnh đạo Á châu dày dạn kinh nghiệm chính
trị và nắm vững qui luật kinh tế toàn cầu. Sau một thời gian
áp dụng biện pháp thắt lưng buộc bụng để ổn định giá cả, các quốc gia Đông Á áp
dụng các chính sách cởi trói tài chánh cần thiết để tạo điều kiện cho sự phục
hồi (2). Riêng tại 
Việt 
Có khá nhiều dấu hiệu kinh tế Việt 
Theo Nha Nghiên cứu và Thống kê của Hà nội lợi tức đầu người tại
Việt Nam trong năm 1998 là $248 mỹ kim tức tăng 250% so với lợi tức năm 1993,
trong đó lợi tức của dân thành phố tăng 370%, dân sống ở thôn quê tăng 200%
(3). Với lợi tức đầu Người đó Việt 
Việt Nam cũng tăng xuất cảng trong 8 tháng đầu của năm 1999 lên
con số 7.2 tỉ mỹ kim, tăng 15% so với cùng thi gian năm 1998 (5). Tuy nhiên mức tăng xuất cảng không bù được mức tăng nhập cảng so
với cùng thời gian năm trước. 
Để chuẩn bị cho việc đầu tư của nước ngoài, Việt Nam ấn định
lương tối thiểu của nhân công không có chuyên môn làm việc cho các công ti
ngoại quốc trong nước là 50 mỹ kim mỗi tháng tại Hà Nội và Sàigòn; ở ngoại ô
hai thành phố này là 44 mỹ kim, và ở các nơi khác trên toàn quốc là 39 mỹ kim,
áp dụng kể từ ngày 1/7/99 (6). 
Chính phủ Việt Nam trong tháng 8/99 tu chính Luật Khuyến khích
Đầu tư Quốc nội, thiết lập thêm Quỹ Khuyến khích Phát triển, Quỹ Khuyến khích
Xuất cảng và Quỹ Yễm trợ Kỹ thuật và Khoa học liên hệ đến phát triển (7). 
Cách thức đánh thuế các công ti đầu tư tại Việt 
Sự phục hồi của nền kinh tế Việt Nam trong nền thịnh vượng chung
trở lại của Á châu tuy là một quá trình kinh tế lên xuống tự nhiên, một phần
cũng nhờ những ý kiến cải tổ kinh tế đúng lúc và bạo dạn của Ủy viên Chính trị
bộ kiêm Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Dũng đã thuyết phục Chính trị bộ đảng
Cộng sản Việt Nam lấy những quyết định cần thiết, mà quan trọng nhất là thỏa
thuận trên nguyên tắc ký thỏa ước Mậu dịch Song phương với Hoa Kỳ. 
Vấn đề còn lại là cuộc đổi mới kinh tế thứ hai
này đi xa đến đâu? Một phần sẽ do những rủi may của nền kinh tế toàn cầu: Nhật Bản
phục hồi ra sao? Kinh tế Hoa Kỳ có sung mãn lâu dài nữa không? Cuộc cãi vã giữa Trung quốc và Đài Loan có đưa đến chiến tranh
không? Con ngựa bất kham Bắc Hàn có trở chứng không? Và
câu hỏi quan trọng nhất là ảnh hưởng của Nguyễn Tấn Dũng đối với Chính trị bộ
của đảng cộng sản đến mức độ nào? (Sept. 1999)
1.         
2.         
3.         Bản tin AP ngày 
4.         Báo cáo của Ủy ban phụ trách các chương
trình phát triển của Liên hiệp quốc (United Nations Development Programme) ngày
5.         Bản tin VN News Agency ngày 
6.         Nghị Định ngày 15/6/99 của Bộ Lao động, Thương binh & Xã
hội. 
7.         
8.         Thông tư số 169 do bộ Tài chánh Việt 
 
| Trần Bình  | http://www.vnet.org/tbn |