Suy tư của Tiến sĩ Henry Kissinger về
Trung quốc
Lời giới thiệu: Tiến sĩ Henry Kissinger vừa cho ra cuốn “On China”. Sách dày 586
trang do The Penguin Press xuất bản. Ông là nhà ngoại giao giúp tổng thống
Nixon mở cửa Trung quốc thời đại khép kín của Mao Trạch Đông. Qua cuộc mở cửa
đó Henry Kissinger đã giải quyết cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông thực hiện hơn
50 chuyến đi ngoại giao qua Trung quốc và dính líu đến quan hệ Trung quốc-Hoa
Kỳ một cách công khai hoặc âm thầm với nhiều nhà lãnh đạo của hai nước từ thời
Nixon và Mao Trạch Đông đến nay .
Ông là người có thẩm quyền nhất bàn về
quan hệ Hoa Kỳ-Trung quốc và vai trò của Trung quốc trên thế giới trong thế kỷ
21. Ông viết nhiều sách về các nổ lực ngoại giao của ông đế sắp xếp lại bàn cờ
quốc tế cách nào để có lợi nhất cho Hoa Kỳ. Một số nhà phê bình cho rằng sách
ông chứa đựng nhiều chi tiết lịch sử hữu
ích nhưng có chỗ thiếu phần trung thực vì ông có khuynh hướng “nói tốt cho mình”
(self serving).
Năm nay ông Kissinger 88 tuổi. Cuốn
sách “On China” của ông có tính cổ điển. Cái nhìn của ông về quan hệ tương lai
giữa Hoa Kỳ và Trung quốc các học giả khác cũng đã từng bàn tới trong vô số
sách báo từ lúc Trung quốc bắt đầu bước vào thế giới siêu cường cách đây 20
năm. Nói chung không có gì mới mẽ gay cấn.
Cái nhìn toàn bộ của ông Kissinger
trong bang giao quốc tế là: “Kẻ thù của kể thù ta là bạn ta”. Chính sách thực dụng (Realpolitic) của Hoa Kỳ và đặc biệt chính
sách “kẻ
thù của kẻ thù ta” là bạn ta của Kissinger đã được Tiến sĩ Âu Dương Thệ
phân tích kỹ trong Luận án Tiến Sĩ “Die Vietnampolitik der USA – von Johnson-
zur Nixon-Kissnger Doktrin. Oder: die Neuorientierung der amerikanischen
Außenpolitik” (Chính sách Việt
Nam của Mĩ – từ Johnson tới học thuyết Nixon-Kissinger. Hay: Sự chuyển hướng
chính sách đối ngoại của Mĩ) bằng tiếng Đức của ông tại Đại học Tự do Tây
Berlin, gồm 541 trang, nhà xuất bản Peter Lang, München 1979. http://www.bestwebbuys.com/Die-Vietnampolitik-Der-USA-Von-Der-Johnson-Zur-Nixon-Kissinger-ISBN-9783820463255
Trong
Luận án ông Âu Dương Thệ đã phân tích chính sách “kẻ thù của kẻ thù ta” của Kissinger, Cố vấn đặc biệt và Ngoại
trưởng Mỹ thời Nixon, và Washington đã đi đêm với hai đồng minh chính của Hà
nội là Bắc kinh và Mạc tư khoa vào đầu thập niên 1970 như thế nào để ép Hà nội
phải ký với Hoa Kỳ Hiệp định Paris đầu 1973. Khi Nixon bắt tay Mao vào đầu năm
1972 Lê Duẩn, Trường Chinh và Lê Đức Thọ
đã rất cay cú và phẫn uất người “anh cả” phương Bắc. Tiến sĩ Âu Dương Thệ nhấn
mạnh rằng đây không phải là lần đầu. Năm 1954 tại Geneve Hà Nội cũng đã bị Bắc
kinh và Mạc tư khoa, vì các quyền lợi quốc gia khi ấy của họ, ép ký kết Hiện
định đình chiến chia đôi Việt Nam.
Trong
Luận Án tiến sĩ Âu Dương Thệ cũng dẫn chứng: Từ việc đưa ông Diệm về (1954) tới
để đảo chánh giết ông Diệm (1963). Rồi hứa bảo vệ miền Nam, nhưng khi Quốc hội
Mỹ cắt viện trợ thì Nixon đã ép tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải ký Hiệp định
Paris 1973 để Hoa Kỳ rút lui và mở đường cho cuộc Tổng tiến công 1974-75 của
Cộng sản chiếm miền Nam!
Tiến
sĩ Âu Dương Thệ kết luận: Thật ra sách
lược“kẻ thù của kẻ thù ta“ vẫn thường
được các chính trị gia từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim áp dụng. Oái oăm và đau
sót là trong thế kỷ trở lại đây, Việt Nam luôn luôn là nạn nhân của sách lược
này .
Và
ông Âu Dương Thệ thêm, nhiều chính trị gia VN vẫn tưởng mình có thể lợi dụng
được bên ngoài chứ không thấy rằng, chính mình đang bị các thế lực bên ngoài
cho làm người vác cờ “tiền đồn của Thế
giới Cộng sản” và “tiền đồn của Thế
giới tự do”. Nhưng thật là đau sót, cuối cùng chỉ người VN mình giết lẫn
nhau và đẩy nhân dân vào nghèo đói, đất nước tụt hậu!
Có
lẽ đối với những người cầm đầu chế độ toàn trị hiện nay ở VN các kinh nghiệm
này vẫn chưa được nghiêm túc kiểm điểm. Cho nên nay họ lại đang hô lớn “16
chữ vàng” và “bốn tốt”!
Bàn về quan hệ lâu
dài giữa Trung quốc và Hoa Kỳ, ông Henry Kissinger cho rằng hình thái quan hệ
Trung quốc-Hoa Kỳ sẽ quyết định “hòa bình hay chiến tranh” trên thế giới trong
thế kỷ 21. Và nếu lãnh đạo hai nước biết điều chỉnh để thích ứng nhau thì thế
giới có hòa bình.
Vấn đề là những điều kiện đó khó thực
hiện. Khó tiên liệu lãnh đạo hai quốc gia suy nghĩ như thế nào. Trung quốc độc
tài, khép kín và thường cố ý đánh lạc hướng ý đồ của mình. Hoa Kỳ thì dân chủ,
chính sách thay đổi theo áp lực của dư luận và qua kết quả của các cuộc bầu cử
tổng thống và quốc hội. Nói cách khác hai bên không tin nhau, luôn luôn ở tư
thế chuẩn bị đón đòn bất ngờ của nhau nên mối quan hệ luôn căng thẳng.
Sau
đây là ý kiến của ký giả Max Frankel về cuốn “On China”. Ông Frankel từng là
chủ bút nhật báo The New York Times, và là người phụ trách tường thuật và bình
luận vụ đi Trung quốc của Nixon & Kissinger năm 1972. Nếu tiến sĩ Henry
Kissinger là người có thẩm quyền nhất viết về mối quan hệ Trung quốc-Hoa Kỳ thì
ông Max Frankel là ký giả có thẩm quyền nhất điểm cuốn “On China” của Henry
Kissinger
** Trần Bình Nam **
Ông Frankel viết (*)
Khi
dư luận thế giới đang quan tâm về mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung quốc, cuốn
sách của Tiến sĩ Henry Kissinger ra đời đúng lúc. Ông là người từng suy diễn
từng câu nói, từng cử chỉ của các nhà lãnh đạo Trung quốc để tìm hiểu họ muốn
gì và định làm gì để hoạch định cách đáp ứng có lợi nhất cho Hoa Kỳ .
Vốn
là cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Nixon, sau làm Bộ trưởng Ngoại giao
dưới thời tổng thống Nixon và Gerald Ford. Từ năm 1977 sau khi thôi mọi chức vụ
ông là học giả hàng đầu về quan hệ Trung quốc – Hoa Kỳ. Vấn đề nổi bật giữa hai
nước là: Trung quốc bực mình về sự can thiệp của Hoa Kỳ vào chuyện nội bộ của
Trung quốc, trong khi Hoa Kỳ cảm thấy bất an vì các chính sách đàn áp tôn giáo,
đàn áp đối lập chính trị và nghiệt ngã với người thiểu số của Trung quốc.
Trong cuốn sách
“On China’ dày cộm của Henry Kissinger ông cho rằng những chuyến đi của ông
trong hai năm 1971- 1972 dư luận thế giới cho là những đột phá quan trọng thật
ra chỉ là việc phải tới thôi. Henry Kissinger viết: “Việc Hoa Kỳ và Trung quốc
phải tìm đến nhau lúc đó là nhu cầu của thời điểm” … “trước sau cũng phải đến
dù ai lãnh đạo Hoa Kỳ và Trung quốc” .
Cả
hai nước đều đang mệt mỏi vì chiến tranh (chiến tranh Việt Nam; chiến tranh
biên giới Nga-Hoa) và khủng hoảng nội bộ (phong trào chống chiến tranh tại Hoa
Kỳ; xáo trộn do cuộc Cách Mạng Văn Hóa quá đà tại Trung quốc). Cả hai nước đang
bị Liên bang Xô viết đe dọa nên thấy cần
phải gác những căng thẳng do chiến tranh Việt Nam và Đài Loan lại để tìm tới
nhau. Cả hai áp dụng nguyên tắc “kẻ thù của kẻ thù ta” là bạn ta.
Nhưng
thời vàng son tay trong tay đó qua rồi. Trung quốc ra khỏi bóng đêm của những
chính sách sai trái như “cách mạng liên tục” và “kinh tế tuyệt đối chỉ huy” của
Mao và trở thành một sức mạnh kỹ nghệ. Liên bang Xô viết sụp đổ. Hoa Kỳ trở
thành siêu cường số một mạnh dạn đẩy mạnh lý tưởng dân chủ trên thế giới ngay
khi có dấu hiệu bất ổn vì tiêu dùng nhiên liệu, hàng hóa và công nợ qúa tãi. Sự
thay đổi tương quan sức mạnh làm cho hai nền kinh tế của Hoa Kỳ và Trung quốc
lệ thuộc vào nhau, trong khi không nước nào có một chiến lược chung sống trong
hòa bình.
Qua
cuốn “On China” ông Henry Kissinger điểm lại những chìm nổi trong quan hệ giữa
Hoa Kỳ và Trung quốc và lục lọi trong kho cổ sử Trung quốc để tìm một chiến
lược hợp tác. Ông xem xét từ những ghi chú cá nhân đến những nghiên cứu mới
nhất để chứng minh tinh thần thực dụng của những người nối bước Mao. Henry
Kissinger kết luận những nhà lãnh đạo Trung quốc hiện nay bằng lòng sống trong
ranh giới quốc gia lịch sử của họ (TBN: đừng quên đối với người Trung hoa ranh
giới lịch sử của họ bao gồm cả Việt Nam) và đủ kiên nhẫn chờ ngày thống nhất với Đài Loan trong
hòa bình và trên hết quyết tâm xây dựng một nền kinh tế sung mãn và xóa nạn đói
trong cả nước. Trong khi đó ông không
tin Hoa Kỳ có thể duy trì một chính sách ngoại giao liên tục. Ông nghĩ rằng các
chuyển tiếp dân chủ không ngừng như những màn kịch tâm lý tại Hoa Kỳ làm cho
các nước khác "đoán gìa đoán non” về ý đồ của Hoa Kỳ mà không bao
giờ tin Hoa Kỳ.
Môn
đệ của tiến sĩ Kissinger đều biết ông từng cho rằng dân chủ là tốt nhưng là một
gánh nặng của các nhà lãnh đạo trên thế giới, tại Hoa Kỳ cũng như ở các nước
khác .
Ông
nhắc lại trong thập niên 1970 khi ông còn tại chức ông lo ngại các cuộc biểu
tình chống chiến tranh tại Hoa Kỳ có thể làm cho Mao suy đoán đây là khởi đầu
của một cuộc cách mạng toàn cầu, và từ đó có những quyết định nguy hiểm. Henry
Kissinger lý luận rằng việc Nixon từ chức vì vụ Watergate, quốc hội cắt viện
trợ cho Nam Việt Nam và giới hạn quyền lãnh đạo chiến tranh của tổng thống,
việc tiết lộ tin tức tình báo làm cho Hoa Kỳ mất thế đứng trong quan hệ Mỹ -Hoa
và làm cho Hoa Kỳ kém thế trước sự lấn lướt của Liên bang Xô viết. Tuy nhiên
Henry Kissinger nói ông bớt lo khi tổng thống Carter không để cho chủ chương
nhân quyền của ông làm hỏng quan hệ với Trung quốc và cũng yên tâm khi thấy
tổng thống Reagan không để cho sự lạc quan quá mức của ông thúc ông đưa ra
những đòi hỏi phi lý đối với Trung quốc, mặc dù Reagan đã đi hơi xa khi đưa ý
kiến đòi Taiwan độc lập.
Thiên
An Môn xẩy ra và Hoa Kỳ đã phản ứng mạnh mẽ cho thấy giới hạn của quan niệm
“mềm dẽo” của Henry Kissinger bên cạnh nhu cầu xiển dương những giá trị của Hoa
Kỳ trong chính sách ngọai giao.
Nhìn
lại, Tiến sĩ Henry Kissinger nghĩ rằng hoàn cảnh ảnh hưởng đến quyết định và
chính sách. Ông viết : “Đôi khi có những trường hợp mà sự vi phạm nhân quyền
quá lộ liễu, Hoa Kỳ thấy không có lợi ích gì tiếp tục giữ mối quan hệ tốt với
quốc gia đương sự như trường hợp Khmer Đỏ tàn sát dân tại Cambodia hay vụ diệt
chủng tại Rwanda nhất là khi áp lực dư luận đòi hỏi sự can thiệp thay đổi chế
độ hay nhân sự lãnh đạo. Nhưng có những trường hợp các biện pháp đó không thể
áp dụng vì quyền lợi an ninh của Hoa Kỳ. Như đối với Trung quốc. Trung quốc rất
dễ bất mãn khi họ nhớ lại nổi tủi nhục trong quá khứ đã để cho các nước Tây
phương bắt nạt”
Tiến
sĩ Henry Kissinger tỏ ra thán phục tổng thống George H.W. Bush (Bush lớn) biết
xử sự khéo léo đối với Trung quốc trong vụ Thiên An Môn. Bush áp dụng biện pháp
trừng phạt kinh tế đối với Trung quốc đồng thời gởi đặc sứ với thư riêng sang
an ủi. Tổng thống Clinton khi mới lên đã có thái độ cứng rắn đối với Trung quốc
về nhân quyền, nhưng sau đó đã khôn ngoan rút lui. Trung quốc không hề ghi nhận
thiện chí này của tổng thống Clinton. Trung quốc xem việc thôi can thiệp vào
nội bộ Trung quốc là đương nhiên không có gì phải ơn với nghĩa.
Đối
với tổng thống George W. Bush (Bush nhỏ), ông Kissinger nói mặc dù chủ trương
“xiển dương tự do dân chủ” ông cũng khéo léo khi thì nguyên tắc, khi thì mềm
dẽo trong quan hệ với Trung quốc do nhu cầu chiến lược.
Henry
Kissinger viết rằng nếu Hoa Kỳ đòi hỏi một thể chế dân chủ là điều kiện tiên
quyết để nói chuyện với Trung quốc thì mọi sự sẽ rơi vào bế tắc. Ông nói những
ai đấu tranh cho những giá trị của Hoa Kỳ đều đáng ca ngợi, nhưng “một chính
sách ngoại giao có hai mặt: một mặt là cách thi hành, một mặt là kết quả. Nếu
cách thi hành vượt ra khỏi tiêu chuẩn quốc tế và ảnh hưởng đến quyền lợi quốc
gia thì phải có một chọn lựa. Henry Kissinger nhấn mạnh rằng sự chọn lựa này
“phải thành thật”. Nhưng ông đã không thành thật gì lắm khi quả quyết “Các cuộc
tranh luận tại Hoa Kỳ chỉ hữu ích nếu biết phối hợp hai con đường: (1) điều
chỉnh chính sách lý tưởng theo hoàn cảnh, và (2) tôn trọng các giá trị cố hữu
của Hoa Kỳ và xây dựng trên đó một chính sách thực tế thực hiện được”
Cuối
sách ông Henry Kissinger chọn an ninh quốc gia là trên hết.
Henry
Kissinger nhận xét rằng qua quá trình lịch sử, Hoa Kỳ đôi khi say sưa theo đuổi
những giá trị của mình đã quên quyền lợi quốc gia. Điều này đúng đối với trường
hợp Hoa Kỳ can thiệp vào Libya và lý thú ở chỗ nó diễn ra vào lúc cuốn “On
China” đang lên khuôn. Có lẽ ông Kissinger ngạc nhiên nhiều khi thấy Trung quốc
không bỏ phiếu chống nghị quyết của HĐBA Liên hiệp quốc (TBN: nghị quyết số
1973 ngày 17/3/2011) can thiệp vào Libya vì trong cuốn sách ông viết: “Tại Á
châu hôm nay người ta xem chủ quyền quốc gia là trọng và áp lực nào từ bên
ngoài liên quan đến nội bộ của Trung quốc, Trung quốc cũng sẽ phản ứng mạnh
mẽ.” Dù vậy Henry Kissinger cũng không quên kết luận rằng nếu Hoa Kỳ theo đuổi
một chính sách thực dụng (realpolitik) đặt quyền lợi quốc gia trên hết cũng
không nên quên rằng hoà bình là một phạm trù
luân lý cần quan tâm.
Suốt
cuốn “On China’ Henry Kissinger đong đưa
giữa thực tế quyền lợi và lý tưởng tinh thần. Đến cuối sách ông mới đi vào câu
chuyện quan hệ giữa Trung quốc và Hoa Kỳ.
Câu hỏi được nêu ra là: “hiện Hoa Kỳ và Trung quốc không có kẻ thù chung nào
trước mắt, vậy cái gì làm cho hai nước hợp tác, tin cậy nhau để cùng xây dựng
hòa bình thế giới?”
Để
trả lời tiến sĩ Henry Kissinger trích dẫn một văn thư của ông Eyre Crowe, một
viên chức cao cấp của Bộ Ngoại giao Anh viết năm 1907 khi phân tích tình hình
Âu châu. Ông Crowe viết “Khi Đức xây dựng một hạm đội hùng mạnh thì điều này
hiển nhiên đụng chạm đến quyền lợi của Anh quốc dù Đức nói gì hay làm gì.”
Hiện
nay tại Hoa Kỳ cũng có một trường phái
Crowe cho rằng Trung quốc hùng mạnh là một điều bất lợi cho quyền lợi của
Hoa Kỳ tại Thái bình Dương và tốt nhất là nên chận trước sự lớn mạnh của Trung
quốc. Henry Kissinger cảm thấy cả hai bên đều lo lắng, và ông lo rằng trường phái Crowe sẽ mạnh mẽ đòi hỏi một
Trung quốc dân chủ là điều kiện tiên quyết để có thể tin Trung quốc. Tiến sĩ
Henry Kissinger cảnh giác rằng “trận giặc lạnh” giữa Trung quốc và Hoa Kỳ sẽ
không làm hai nước gần nhau hơn vì bên này nghi ngờ ý đồ của bên kia, trong khi
thật sự bản chất của cạnh tranh giữa hai nước là kinh tế chứ không phải là quân
sự.
Vốn
là người đặt nặng sự quan trọng của ngoại giao ông Henry Kissinger cho rằng
quyền lợi chung có thể giúp Trung quốc và Hoa Kỳ xây dựng một trật tự chung để
cùng tiến bộ. Ông mường tượng một kết hợp Mỹ - Trung thành Cộng đồng Thái Bình
Dương (Pacific Community) theo khuôn mẫu Cộng đồng Đại Tây Dương (Atlantic
Community) giữa Hoa Kỳ và Âu châu. Trong Cộng đồng đó các quốc gia Á châu tham
dự mà không nhất thiết phải theo bên này hay bên kia.
Đó
là mơ ước của Henry Kissinger khi ông đi Bắc Kinh lần đầu tiên. Và dù ông không
nói ra, ai cũng biết ông hy vọng quốc gia nào cũng có người chủ trương như ông.
Trần
Bình Nam phóng dịch
May 19, 2011
(*) Nguyên
văn bài điểm sách của ký giả Max Frankel đăng trên nhật báo The New York Times
ngày 13/5/2011.
May 13, 2011
Henry Kissinger
on China By MAX FRANKEL
ON CHINA
By Henry
Kissinger
Illustrated.
586 pp. The Penguin Press. $36.
Henry Kissinger was not only the first
official American emissary to Communist China, he persisted in his brokerage
with more than 50 trips over four decades, spanning the careers of seven
leaders on each side. Diplomatically speaking, he owns the franchise; and with
“On China,” as he approaches 88, he reflects on his remarkable run.
To the degree that Washington and Beijing
now understand each other, it is in good measure because Kissinger has been
assiduously translating for both sides, discerning meaning in everything from
elliptical jokes to temper tantrums. At every juncture, he has been striving to
find “strategic concepts” that could be made to prevail over a history of
conflict, mutual grievance and fear. As President Nixon’s national security
adviser, then secretary of state for Nixon and Gerald Ford, and since 1977 as a
private interlocutor extraordinaire, Kissinger has been unwaveringly committed
to surmounting what he considers the legitimate Chinese resentment of American
interference in their internal affairs and Americans’ distaste for China’s
brutal suppression of ethnic, religious and political dissent.
The surprise buried in his lumbering review
of Sino-American relations is that the much ballyhooed Nixon-Kissinger journeys
to China in 1971-72 turned out to have been the easy part. “That China and the
United States would find a way to come together was inevitable given the
necessities of the time,” he writes. “It would have happened sooner or later
whatever the leadership in either country.” Both nations were exhausted from
war (Vietnam, clashes on the Soviet border) and domestic strife (antiwar
protests in Nixon’s case, the Cultural Revolution in Mao’s). Both were
determined to resist Soviet advances and so could quickly agree to make common
cause. The menace of Moscow took the leaders’ minds off confrontations in
Vietnam and Taiwan and quelled their ritual denunciations, whether of international
imperialism or Communism. They decided that the adversary of my adversary was
my pal, and for more than a decade that was fruitfully that. But that was a
different time. China finally escaped from Mao Zedong’s mad doctrine of
perpetual revolution and from the enfeebling nostrums of central planning; it
became an industrial powerhouse. The Soviet Union and its empire collapsed. And
the United States, feeling supreme, began promoting democracy with missionary
zeal even as it grew dangerously addicted to foreign oil, goods and credit. The
radical shift in the balance of power turned China and the United States into
mutually dependent economic giants, but it left them without an overarching
strategic design of partnership.
It is to demonstrate the need for such a
design that Kissinger reviews the ups and downs of Sino-American relations,
reaching even into ancient Chinese history to define national characteristics.
(He finds it apt that the Chinese like to play “wei qi,” or “go,” a protracted
game of encirclement while we play chess, looking for control of the center and
total victory.) Kissinger draws heavily on much recent scholarship and on notes
of his trips to Beijing to celebrate the pragmatism of Mao’s successors. He
says they are content to remain within their restored historic frontiers,
willing to await a peaceful reunion with Taiwan, and most determined to
continue their remarkable economic growth and to eradicate China’s still
widespread poverty. He is less confident about America’s capacity to sustain a
steady foreign policy, noting that “the perpetual psychodrama of democratic
transitions” is a constant invitation to other nations to “hedge their bets” on
us.
As students of Kissinger well know, he has
long considered democracy to be a burden on statecraft — both the clamor of
democracy within the United States and our agitations for democracy in other
lands.
He recalls yet again his agonies in office
in the 1970s, when he thought that American demonstrations during the Vietnam
War could have misled Mao into believing that a “genuine world revolution” was
at hand. He argues that the “destruction” of Nixon in the Watergate crisis, the
withdrawal of Congressional support for Vietnam, new curbs on presidential war
powers and the “hemorrhaging” of intelligence secrets all combined to undermine
the quasi alliance with China, making America appear ineffectual against the
Soviets. He is glad that Jimmy Carter did not let his human rights concerns
upset relations with China and that Ronald Reagan’s cheerful personality
overcame the “almost incomprehensible contradictions” of his dealings with
Beijing even as he promoted the idea of an independent Taiwan.
The severest test of the quasi alliance, of
course, was the brutal suppression of democratic strivings in Tiananmen Square
in 1989. That violent crackdown also tested Kissinger’s tolerance for the
assertion of American values in foreign relations.
Looking back, he believes everything depends
on circumstances: “There are instances of violations of human rights so
egregious,” he writes, “that it is impossible to conceive of benefit in a
continuing relationship; for example, the Khmer Rouge in Cambodia, and the
genocide in Rwanda. Since public pressure shades either into regime change or a
kind of abdication, it is difficult to apply to countries with which a
continuous relationship is important for American security. This is especially
the case with China, so imbued with the memory of humiliating intervention by
Western societies.”
And so Kissinger admires the way President
George H. W. Bush, “with skill and elegance,” walked the “tightrope” of
punishing China with sanctions after Tiananmen while simultaneously apologizing
with private letters and special emissaries. President Bill Clinton tried
applying pressure for a time, Kissinger notes, but was shown no gratitude when
he wisely relented; the Chinese “did not view the removal of a unilateral
threat as a concession, and they were extraordinarily touchy regarding any hint
of intervention in their domestic affairs.” And President George W. Bush,
despite his “freedom agenda,” earns Kissinger’s praise for overcoming “the
historic ambivalence between America’s missionary and pragmatic approaches,” by
means of “a sensible balance of strategic priorities.”
If America’s preference for democratic
governance is made the main condition for progress on other issues with China,
Kissinger concludes, “deadlock is inevitable.” Those who battle to spread
American values deserve respect. “But foreign policy must define means as well
as objectives, and if the means employed grow beyond the tolerance of the
international framework or of a relationship considered essential for national
security, a choice must be made.” That choice “cannot be fudged,” he insists,
even as he attempts to protect his flanks with a fudge of his own: “The best
outcome in the American debate would be to combine the two approaches: for the
idealists to recognize that principles need to be implemented over time and
hence must be occasionally adjusted to circumstance; and for the ‘realists’ to
accept that values have their own reality and must be built into operational
policies.”
Still, in the end, Kissinger votes for
national security über alles. Scattered through his history are tributes to
American values and commitments to human dignity, which may indeed sometimes
drive our policies beyond calculations of the national interest. Exactly that
happened, in fact, after “On China” went to press, when President Obama
ventured into Libya. Kissinger was perhaps surprised when that humanitarian
intervention and bid for regime change failed to evoke a Chinese veto at the
United Nations. But in Asia now more than Europe, he argues, “sovereignty is
considered paramount,” and any attempt “from the outside” to alter China’s
domestic structure “is likely to involve vast unintended consequences.”
Besides, as he used to insist while practicing realpolitik in Washington, the
cause of peace is also a moral pursuit.
This central theme of Kissinger’s experience
and counsel must be distilled from the sometimes meandering and largely
familiar history he tells in “On China.” Only in its last pages does he discuss
the essential question of future Sino-American relations: With no common enemy
to bind them, what will keep the peace and promote collaboration and trust
between the world’s major powers?
Kissinger
addresses this question by looking to the past, a memorandum written by a
senior official of the British Foreign Office, Eyre Crowe, in 1907. Crowe
argued that it was in Germany’s interest to “build as powerful a navy as she
can afford” and that this would itself lead to “objective” conflict with the
British Empire, no matter what German diplomats said or did. There is today a
“Crowe school of thought” in the United States, Kissinger observes, which sees
China’s rise “as incompatible with America’s position in the Pacific” and
therefore best met with pre-emptively hostile policies. He perceives growing
anxieties in both societies and fears they are exacerbated by Americans who
claim that democracy in China is a prerequisite for a trusting relationship. He
warns that the implied next cold war would arrest progress in both nations and
cause them to “analyze themselves into self-fulfilling prophecies” when in
reality their main competition is more likely to be economic than military.
Indulging his habitual preference for
diplomatic architecture, Kissinger insists that the common interests the two
powers share should make possible a “co-evolution” to “a more comprehensive framework.”
He envisions wise leaders creating a “Pacific community” comparable to the
Atlantic community that America has achieved with Europe. All Asian nations
would then participate in a system perceived as a joint endeavor rather than a
contest of rival Chinese and American blocs. And leaders on both Pacific coasts
would be obliged to “establish a tradition of consultation and mutual respect,”
making a shared world order “an expression of parallel national aspirations.”
That was indeed the mission of the very
first Kissinger journey to Beijing. And while he does not quite say so, he
invests his hopes in a concert of nations represented, of course, by multiple
Kissingers **
Max Frankel, a former executive editor
of The Times, covered the Nixon-Kissinger journey to China in 1972.
______