Ôn
Cố Tri Tân
Trần Bình 
Hôm 26 tháng
5 năm 2006 Phòng Lưu Trữ Hồ sơ An ninh Quốc gia  (National Security Archive) của đại
học George Washington cho công bố một tài liệu gồm 28.000 trang chữ cỡ 12 ghi
lại khoảng 2.100 cuộc đàm thoại và thương thuyết của tiến sĩ Henry Kissinger
mang tựa đề: “The Kissinger Transcripts:
A Vermatim Record of U.S. Diplomacy, 1969-1977”  (Nguyên văn các cuộc đàm thoại ngoại giao của
ông Kissinger  trong thời gian từ 1969
đến 1977). 
Đây là một
số tài liệu mật thuộc Nha Hồ sơ Quốc gia (National  Archives) được giải mật ghi gần nguyên văn
các cuộc hội đàm và thảo luận của tiến sĩ Henry Kissinger với các nhà lãnh đạo
trên thế giới sau khi đã được ông William Burr, một chuyên viên phân tích của
đại học George Washington duyệt lại để bảo đảm sự công bố nội dung không có hại
cho an ninh quốc gia, trong thời gian ông Kissinger giữ các chức vụ Cố vấn An
ninh Quốc gia (từ 20/1/1969) và sau đó kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ (từ
22/9/1973 đến 3/11/1975) dưới hai đời tổng thống Nixon và Gerald Ford và sau
đó. Tài liệu được công bố trong mạng ProQuest và
microfilm, và có thể tham khảo nội dung nơi: 
http://www.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB193/press.htm.
Phòng Lưu
trữ Hồ sơ An ninh quốc gia đã cho phổ biến 20 cuộc đàm
thoại trên mạng internet:
 http://www.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB193/index.htm#1
trong đó có 6 cuộc đàm thoại (số 1, 2, 3, 10, 11 và 12) liên quan đến
cuộc chiến tranh Việt 
Vào thời gian đó tình hình đám phán tại 
Trong bối
cảnh đó ngày 20 tháng 6 năm 1972 Chu Ân Lai và Kissinger thảo luận về vấn đề
chấm dứt chiến tranh Việt Nam tại Bắc Kinh. Qua cuộc thảo luận này Kissinger
nói rằng Hoa Kỳ không thể phản bội đồng minh bằng cách hạ bệ ông Thiệu, nhưng
nếu có một thỏa ước hòa bình, tù binh Hoa Kỳ được trao trả thì chuyện còn lại
là chuyện của hai bên Nam Bắc Việt Nam Hoa Kỳ sẽ không dính líu vào, với điều
kiện là nó đừng diễn ra quá sớm, thí dụ một tháng sau khi Hoa Kỳ rút hết quân
và tù binh được trả tự do. 
Ẩn ý được
bật mí này đã làm thay đổi thái độ của Lê Đức Thọ trong cuộc hòa đàm tại Ba Lê,
trước kia câu giờ bao nhiêu thì vào những tháng cuối năm 1972 lại nhanh nhẩu
bấy nhiêu. Hiểu ý của Hoa Kỳ (do Trung quốc báo tin *) Hà Nội thôi không đòi
Hoa Kỳ phải lật đổ ông Thiệu đổi lấy điều kiện Hoa Kỳ thuận để cho quân đội Bắc
Việt ở lại Nam Việt Nam sau khi ngưng bắn. 
Cuộc thảo
luận giữa Kissinger (nói tiếng Anh) và 
Nội dung
cuộc thảo luận cho chúng ta thấy cách thức du thuyết của tiến sĩ Kissinger là
tạo không khí thân mật với người đối thoại, khi cương khi nhu, khi cần thì hài
hước nhưng rất sâu sắc và chứa đựng nhiều ẩn ý. Theo dõi cuộc nói chuyện giữa
thủ tướng Chu Ân Lai và tiến sĩ Kissinger chúng ta có cảm tưởng như Kissinger
đang đánh cờ tướng mà nước đi nào ông cũng tính toán chuẩn bị cho vài nước cờ
sắp tới và hầu như không đếm xỉa gì đến ý kiến của chính quyền Nam Việt Nam. Nếu tiến sĩ Kissinger có tâng bốc Hà Nội cũng chỉ là một lối nói
khéo léo chứ kỳ thật ông nghĩ Mạc Tư Khoa và Bắc kinh sẽ là hai trung tâm quyết
định thái độ cương nhu của Hà Nội. 
Cuộc hội đàm
giữa thủ tướng 
Sau đây là
nội dung phần trao đổi giữa thủ tướng Chu Ân Lai và tiến sĩ  Kissinger về vấn đề Việt 
Thủ tướng
Tiến sĩ
Henry Kissinger (Kissinger): Trước đây ông thủ tướng nói ông có vài nhận xét về
tình hình Đông Dương, vậy xin ông cho biết.
Kissinger: Ý
ông thủ tướng là có thể sau khi tôi trình bày xong, ông sẽ không còn gì thắc
mắc nữa?
Kissinger:
Vậy thì tôi sẽ rất thẳng thắn với ông thủ tướng. Bắt đầu là cuộc tấn công của  Bắc Việt 
Trước đây
tôi đã nói với ông thủ tướng rằng chúng tôi không muốn duy trì một căn cứ quân
sự nào tại Đông Dưong hoặc theo đuổi chính sách của vị ngoại trưởng không chịu
bắt tay ông thủ tướng (ngoại trưởng Foster Dulles không chịu bắt tay thủ tướng
Chu Ân Lai trong cuộc hội đàm tại Geneva năm 1954 *). Thời
đại đó qua rồi. Và tôi tin rằng tương lai quan hệ giữa Hoa Kỳ và Bắc
Kinh quan trọng đối với Á châu hơn là những gì có thể xẩy ra tại 
Khi tổng thống Johnson đưa quân vào Việt 
Hôm nay tôi
ngồi ở đây chứng tỏ cái căn bản dựa trên đó Hoa Kỳ đưa quân vào Đông Dương
không còn giá trị nữa. Chúng tôi thừa hưởng một chính sách và
bây giờ chúng tôi phải thanh lý thế nào để không ảnh hưởng đến vị thế của chúng
tôi trên thế giới và sự ổn định trong nước. Chúng tôi
thật tâm muốn chấm dứt cuộc chiến này. Và ông thủ
tướng biết từ năm 1967 tôi đã mở đầu cuộc thương thuyết với Hà Nội. Và
trước đây tôi đã nói với ông thủ tướng rằng chúng tôi quan niệm nước Việt Nam
Dân chủ Cộng Hòa là một thực tế mạnh nhất tại bán đảo Đông Dương. Chúng tôi
không có lợi gì làm tan vỡ hay đánh bại thực thể đó. Sau khi chúng tôi rút quân
xong chúng tôi ở xa 12.000 dặm trong khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chỉ
cách Sài gòn 300 dặm. Tôi không hiểu tại sao Hà Nội không
thấy được sự việc đó.
Kissinger:
Như vậy Hà Nội thiếu tự tin. Hà Nội giỏi về tiểu tiết mà
thiếu cái nhìn lớn. Điều Hoa Kỳ muốn làm (qua Việt 
Hà Nội đòi một điều … mà chúng tôi không làm được - dù làm tổn
thất quan hệ giữa hai nước chúng ta - là lật đổ một chính quyền bạn. Không
phải vì Hoa Kỳ thương tiếc một cá nhân nào (ám chỉ tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
*) hay thích chính quyền thân Mỹ ở Sài gòn. Tại sao
Hoa Kỳ muốn có một chính quyền thân Mỹ tại Sài gòn trong khi Hoa Kỳ có thể sống
với một chính quyền không thân Mỹ lớn hơn tại Á châu? (ý nói Trung quốc *). Lý do chúng tôi không làm được là vì
chúng tôi không chấp nhận một chính sách ngoại giao dựa trên sự phản bội. 
Kissinger:
Lần trước (lần gặp thứ nhì tháng 10/1971 *) tôi có nói với ông thủ tướng chúng
tôi có thể để lại một ít cố vấn, nhưng ông thủ tướng đã phản đối “đi còn để lại
cái đuôi” nên chúng tôi đã duyệt lại và bây giờ chúng tôi quyết định rút toàn
bộ.
Kissinger:
Chúng tôi không có ý định rút quân ở Thái Lan, nhưng
nếu có ngưng bắn chúng tôi có thể cam kết không xử dụng lực lượng đó ở Việt 
Có điều chúng tôi muốn nói rõ hơn về nguyên tắc không phản bội
đồng minh mặc dù ông thủ tướng có thể không vui. Tháng Bảy năm trước ông
thủ tướng nói với tôi rằng: “Trung quốc sẽ không nói chuyện với Hoa Kỳ chừng
nào Hoa Kỳ chưa lật đổ chế độ Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan”. Chúng
tôi đã không làm việc đó dù rất trân trọng quan hệ giữa hai nước chúng ta.
Then chốt quan hệ giữa chúng ta là để mọi sự diễn biến một
cách hòa bình, chứ không phải là hành động thiếu danh dự. Nếu chúng tôi có thể phản bội một đồng minh này thì chúng tôi cũng
có thể phản bội các đồng minh khác, và còn ai tin chúng tôi nữa.
Trở lại vấn
đề Thái Lan. Trong mọi quyết định quan trọng đều có
hai mặt là “quyết định” và “thực tế” của sự việc. Trong một
bữa cơm trước đây ông thủ tướng có nhắc lại chuyện cũ năm 1954. Năm 1954
ai ký gì thì ký (ký Hiệp Định Geneva chia đôi Việt Nam và dự liệu hai năm sau
tổ chức bầu cử để thống nhất đất nước, nhưng sau đó với khuyến cáo của Hoa Kỳ
ông Ngô  Đình
Diệm không chịu tổ chức bầu cử *) ngoại trưởng Dulles đã tính tìm một cớ gì đó
để can thiệp vào Việt Nam vì ngoại trưởng Dulles tin rằng người cộng sản Trung
quốc có âm mưu chiếm Á châu. Bây giờ chúng tôi tính toán
ngược lại.
Kissinger:
Trên một mặt nào đó thôi. Mặt khác, hiện nay chúng tôi nói đến một cam kết mới
về Đông Dương. Hoa Kỳ có thể nói chuyện với Bắc Kinh, tại sao Hoa Kỳ không thể
nói chuyện với Hà Nội. Nhưng những gì Hà Nội đang làm với chúng tôi làm cho 10
năm nữa may ra mới thiết lập được một sự quan hệ giữa hai nước. 
Kissinger:
Khó trả lời là vì tôi không muốn khuyến khích một chuyện như vậy. Nhưng theo
tôi thí dụ như đề nghị ngưng bắn ngày 8 tháng 5 vừa rồi của Hoa Kỳ được chấp
thuận nghĩa là có 4 tháng để rút quân và 4 tháng để trao trả tù binh, và vào
tháng thứ năm chiến tranh lại bùng nổ thì chúng tôi phải xem là chúng tôi bị
lừa gạt và đương nhiên chúng tôi không thể chấp nhận.
Trái lại nếu
Hà Nội thương thuyết một cách nghiêm chỉnh với Nam Việt Nam, và sau một thời
gian dài chiến tranh bùng nổ lại thì chúng tôi không trở lại, có phần chắc là
không.
Kissinger:
Đúng vậy. Nếu năm trước Hà Nội thuận thì bây giờ được một năm
rồi.
Kissinger:
Tôi cũng nói mọi chuyện tùy thuộc vào sự can thiệp (hay không can thiệp *) của
bên ngoài. Nếu chúng ta có thể biến cuộc tranh chấp quốc tế
thành một cuộc tranh chấp địa phương - và ông thủ tướng nghĩ là có thể - thì đó
chinh là chính sách của chúng tôi.
Cái khó là
Bắc Việt 
Chu Ân Lai:
Nếu tính từ khi Thế chiến 2 kết thúc đến nay là 27 năm và chủ tịch Hồ Chí Minh
đã qua đời trước khi thực hiện xong giấc mộng của ông. Chủ
tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, một người có tinh thần tha nhân và yêu
nước. Tôi biết ông ta suốt 50 năm. Tôi gia nhập đảng cộng sản đã 50 năm và tôi quen biết ông cũng 50
năm.
Kissinger:
Tôi chưa từng gặp ông Hồ, nhưng tôi biết một người Pháp từng cho ông ta ăn ở trong nhà (năm 1946 khi ông Hồ Chí Minh sang Pháp
thương thuyết *). Năm 1967 tôi nhờ người Pháp này đi Hà Nội gặp ông Hồ chí Minh
(ông Raymond Aubrac, một viên chức cao cấp của Cơ quan Y tế Thế giới, và đi
cùng với một người bạn là nhà khoa học Herbert Marcovich *)
Kissinger: Hà Nội là nơi tôi chưa bao giờ viếng thăm một cách bí
mật.
Kissinger:
Tôi nắm vững tình hình. Nhưng chưa có giải pháp thôi.
(Một vài trao đổi và hỏi thăm của ông Chu ân Lai
về ông Smyser, một phụ tá của Kissinger, người từng tháp tùng ông Kissinger
trong một chuyến công tác trước tại Bắc Kinh, và sau đó tiến sĩ Kissinger tiếp
tục nói)
Kissinger:
Ông Smyser (sau một năm trở về đại học *) sẽ trở lại và sẽ là một người cùng chung sức giải quyết vấn đề Việt 
Kissinger:
Tôi đồng ý với ông thủ tướng vấn đề trước mắt chúng ta là một thảm kịch Việt 
Kissinger:
Không. Còn tùy theo ý của ông thủ tướng về sự rũ bỏ. Rút quân thì được, nhưng Hoa Kỳ sẽ không thuận những điều kiện
khác. Để tôi phân tích tình hình cho rõ hơn.
Một cách khách quan vấn đề quả là khó giải quyết, và tôi nhìn
nhận rằng trong 20 năm qua chúng tôi không hiểu được tình hình Việt 
Tôi đã hội
đàm 13 lần, trong đó có 8 lần với ông Lê Đức Thọ, 5 lần với ông Xuân Thủy. Mục đích của tôi là tìm ra những vấn đề chính để lấy những quyết
định lớn. Còn những vấn đề nhỏ để cho các nhà ngoại
giao giải quyết.
Trong cả 13 lần hội đàm, họ chỉ muốn đánh du kích ngoại giao và
cứ đi vào những vấn đề nhỏ nhặt. Tôi 
thường nói với ông Lê Đức Thọ rằng – và điều này khó nghe với ông
thủ tướng vì tôi biết ông là người nguyên tắc, trung thành với đồng minh của
mình - cả hai bên nên đặt mục tiêu thương thuyết cho rõ ràng, thí dụ trong 6
tháng nữa chúng ta phải làm cho được điều này hay điều nọ và tìm ra những chiến
thuật để đi tới đó. Nhưng lần nào ông Thọ cũng bác bỏ đề nghị
của tôi.Trước hết họ sợ bị đánh lừa nên không chịu đồng ý cụ thể gì cả và chỉ
muốn biết chúng tôi định làm gì trong nhiều năm tới. Thứ hai là họ theo
đuổi sách lược dùng quân sự một mặt để làm suy yếu chính quyền Sài Gòn, mặt
khác phối hợp quân sự với chiến tranh tâm lý để làm suy yếu chính phủ Hoa Kỳ.
Và đó là điều chúng tôi không thể chấp nhận được. Hà Nội không thể tỏ ra dứt
khoát rằng họ định dàn xếp với chúng tôi hay chỉ định tiêu diệt chúng tôi, hay
ít nhất làm cho chúng tôi mất hậu thuẩn của dân chúng. Vì vậy
cho đến giờ này họ vẫn không chịu chấp nhận bất cứ một nhượng bộ nào cả; họ
nghĩ rằng dù nhượng bộ một chút thôi cũng có thể làm cho chúng tôi lấy lại sự
hậu thuẫn của dân chúng. 
Đó là lý do
chính tại sao buổi hội đàm ngày 2 tháng 5 vừa qua giữa tôi và ông Lê Đức Thọ
thất bại. Khi Hà Nội nghĩ họ đang thắng, họ muốn làm cho dân
chúng Hoa Kỳ nghĩ rằng không còn hy vọng gì nữa họ ép chúng tôi phải nhận các
điều kiện của họ. Điều này giải thích tại sao khi thương thuyết về tù
binh, họ không thương thuyết với chính phủ Hoa Kỳ hay với Hội Hồng Thập Tự mà
lại thương thuyết với phe đối lập (phe chống chiến tranh *).
Kissinger:
Trong chiến tranh có khi chúng tôi làm những quyết định không đúng – nhưng
không phải là trường hợp này – Và vin vào đó Hà Nội
đòi họp hội nghị mở rộng (gồm đủ mặt: 
Chúng tôi
sẳn sàng tái họp hội nghị mở rộng để bàn về nghị trình, nhưng sẽ không đi tới
đâu nếu Hà Nội chưa chịu thay đổi chiến thuật thương thuyết. Ông
thủ tướng cứ tự xét, nếu chúng ta không đối xử với một quốc gia một cách đạo
đức và trọng danh dự, thì dù có lợi lúc này, về lâu về dài cũng không có lợi.
Thật khó nói chuyện với một đối tượng chỉ muốn làm giảm uy
tín của đối phương.
Nói về cuộc tấn công hiện nay của Bắc Việt. Nếu
không có cuộc tấn công giờ này chúng tôi đã rút về nhiều quân và nhiều máy bay
hơn. Chúng tôi có chương trình giảm quân và không tăng thêm các hoạt
động quân sự. Nhưng lợi dụng cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ, Bắc Việt tấn công để bắt
chẹt chúng tôi phải chấp nhận các điều kiện của họ mà chúng tôi đã nói chúng
tôi không chấp nhận được. Chúng tôi thuận các điều kiện khác,
nhưng điều kiện đó thì không (điều kiện đòi lật đổ ông Thiệu trước *).
Tình hình hôm nay như thế nào? Nói ra không phải để tuyên
truyền nhưng theo tôi cuộc tấn công của Bắc Việt đã bị
chận đứng và trong năm nay Bắc Việt sẽ không có một triển vọng nào về quân sự. Tại Hoa Kỳ cuộc tấn công không làm cho dân chúng ồ ạt xuống đường
mặc dù có một số người cầm cờ Bắc Việt đi biểu tình, ít thôi. Vào lúc có
chuyện ở Cambodia (Hoa Kỳ và quân đội Việt Nam Cộng Hòa đánh các căn cứ Bắc
Việt tại Cambodia tháng 5/1970 *) có 200.000 người xuống đường tại Hoa Thịnh
Đốn và Hoa Kỳ cũng không vì thế mà thay đổi chương trình. Sau
ngày 8 tháng 5 (ngày tổng thống Nixon ra lệnh phong tỏa Hải phòng và tái bỏ bom
Bắc Việt*) những người phản chiến muốn có 200.000 người biểu tình thì họ chỉ
huy động được 5.000 người.
Bắc Việt nuôi hy vọng McGovern sẽ thắng trong cuộc bầu cử tổng
thống tháng 11 này. Tôi nghĩ ông ta khó thắng. Các cuộc
thăm dò cho thấy ông ta thua Nixon đến 20 điểm.
Kissinger: Tôi không chắc
Kissinger: Tôi cũng nghĩ không nhất thiết.
Kissinger: Và cũng đừng quên bề nào chúng tôi cũng còn tại chức
7 tháng nữa.
Kissinger: Điều này nói dễ hơn làm.
Kissinger: Đúng vậy
Kissinger:
Để cô Nancy Tang ứng cử may ra.
Kissinger: May ra với tôi làm phụ tá, cô Tang và tôi sẽ làm được
cái gì.
Kissinger:
Đúng vậy. Nhưng McGovern đắc cử chẳng những chính sách Hoa Kỳ đối với Việt Nam
thay đổi mà còn thay đổi trong các chính sách đối với Liên bang Xô viết, Ấn độ,
Nhật bản như một bài quan điểm mới đây trên tờ New York Times. …. Thực tế là
tại Mỹ khuynh hướng chung là ủng hộ sự cải thiện quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung quốc,
nhưng làm gì để vượt qua những khó khăn trước mắt ngoài những trao đổi văn hóa
và bày tỏ thiện cảm với nhau thì nói chung không ai biết phải làm gì.
Mặt khác can
thiệp vào chuyện nội bộ của Hoa Kỳ sẽ có hai hậu quả. Thứ
nhất là buộc chúng tôi phản ứng mạnh, thứ hai là nó ảnh hưởng đến nhiều lĩnh
vực khác ngoài Việt 
Vì vậy chúng tôi tin rằng chấm dứt chiến tranh lúc này có lợi
cho cả hai bên. Nếu chiến tranh còn tiếp tục Hà Nội sẽ mất
mát nhiều hơn cái họ có thể có được. Cuộc tấn công của
họ đã bị chận đứng và họ đang có khó khăn nội bộ (ông Kissinger không nói rõ
khó khăn nội bộ gì *), và chúng tôi sẽ làm cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
gặp nhiều khó khăn ngoài ý muốn của chúng tôi. Chúng
tôi không muốn Hà Nội trở nên yếu kém. Chúng tôi muốn chấm dứt chiến
tranh Việt Nam vì còn nhiều chuyện quan trọng với các quốc gia khác (ý của ông
Kissinger là với Nga và Tàu *)
Nếu chúng tôi có thể nói chuyện với Hà Nội như tôi đang nói với
ông thủ tướng, không phải bằng lời mà bằng thái độ của chúng tôi thì tôi nghĩ
chúng ta có thể chấm dứt chiến tranh. Thực tế đối với chúng tôi
cách giải quyết chiến tranh nhanh nhất là ngưng bắn, rút quân và trao trả tù
binh. Các việc khác để cho tương lai quyết định.
Nếu cần chúng tôi có thể tuyên bố trung lập đối với các biến
chuyển chính trị sau này, và chúng tôi sẽ thuyết phục Nam Việt 
Chúng ta có
thể lấy đề nghị tuyên bố ngày 25/1 và chuyển đến quý vị ngày 27/1 vừa rồi của
tổng thống Nixon làm căn bản, và có thể thêm bớt điều này điều kia, trong đó có cả chuyện chính trị. Nhưng bàn đến chính
trị không bao giờ dứt, vì bàn đến chính trị có nghĩa là duy trì chính quyền
Sàigòn, một điều Hà Nội không chịu, hay lật đổ chính quyền Sài gòn, điều chúng
tôi không chịu, và thực tế không có một giải pháp chính trị nằm ở giữa.
Vậy chúng
tôi phải tìm một con đường khác để chấm dứt chiến tranh. Trước
hết là không biến nó thành một vấn đề quốc tế, và để cho người Đông Dương tự
quyết định số phận của mình với nhau. Tôi cam đoan với
ông thủ tướng rằng quyền tự quyết là mục tiêu của Hoa Kỳ tại Đông Dương, và tôi
tin Trung quốc cũng muốn thế. Chúng tôi không muốn
tranh giành gì tại đó cả. Và mặc dù chúng tôi không thể mang một chính
quyền cộng sản đến Nam Việt Nam, nhưng nếu đó là kết quả của một diễn biến
chính trị qua thời gian thì - nếu chúng tôi có thể sống chung với một chính
quyền cộng sản ở Trung quốc – chúng tôi phải chấp nhận kết quả đó tại Đông
Dương.
Chắc hôm nay ông thủ tướng nghĩ rằng tôi nói hơi nhiều
(Kissinger vừa nói vừa cười)
Kissinger:
Quý ông có hỏi tôi ngoài Cấm Thành còn muốn thăm thú nơi nào. Tôi nói Di Hòa
Viên quá đẹp nên tôi muốn xem một lần nữa, và ban nghi lễ của ông đề nghị thêm
picnic. Đó là một cử chỉ đẹp nhưng không phải do tôi đề nghị. Nhưng nếu có việc
phải làm thì việc làm ưu tiên hơn picnic./.
Trần Bình 
(*) ghi chú của TBN.    
| Trần Bình Nam | http://www.tranbinhnam.com |