HENRY
KISSINGER &
Chính Sách
Đối Ngoại Năm 1999
Của Hoa Kỳ
Trần Bình Nam
Hai mươi bốn
năm trước, cuối tháng 7 năm 1974 Ủy ban Tư pháp Hạ nghị viện Hoa Kỳ thông qua
văn bản gồm ba lý do đề nghị Hạ nghị viện tiến hành thủ tục điều tra truất phế
tổng thống Richard Nixon. Một tuần lễ sau, trước khi Hạ nghị
viện bỏ phiếu điều tra, tổng thống Nixon từ chức. 
Và hiện nay, một cuộc điều tra truất phế khác lại tái diễn với tổng
thống William Clinton. Nhưng tổng thống Clinton không từ
chức dù đầu tháng 10 vừa qua do đề nghị của Ủy ban tư pháp, toàn thể Hạ nghị
viện đã bỏ 258 phiếu thuận, 176 phiếu chống tiến hành thủ tục điều tra truất
phế ông về 15 tội. Tổng thống Clinton không từ chức vì ông tin dân
chúng còn ủng hộ ông và Thượng nghị viện sẽ không đủ 67 phiếu để truất phế ông theo Hiến pháp. 
Tỉ số dân chúng
ủng hộ tổng thống Nixon xuống dưới mức 25% vào cuối thời gian điều tra của công
tố viên đặc biệt Leon Jaworski sau khi cuốn băng ghi các cuộc nói chuyện tại
Bạch cung bị Tối cao Pháp viện buộc phải xuất trình. Clinton trái lại,
dân chúng vẫn ủng hộ ngay cả sau khi cuốn băng video ghi cuộc chất vấn của tổng
thống trước đại bồi thẩm đoàn dài 4 giờ được công bố. Và vào lúc
Hạ nghị viện bỏ phiếu quyết định điều tra truất phế, tỉ số dân chúng ủng hộ gần
60%. 
  
Nhìn trước mắt,
dù kết quả cuộc bầu cử toàn thể Hạ nghị viện và 1/3 Thượng nghị viện ngày
3/11/98 như thế nào, năm 1999 cũng là năm nước Mỹ xử một vị tổng thống, một
người được xem là có uy quyền nhất trên thế giới. Trong lúc
đó nước Mỹ vẫn phải giữ vai trò lãnh đạo thế giới không thể trốn chạy dù người
cầm đầu nước Mỹ không còn đầy đủ uy tín. 
Vấn đề được đặt ra là một ông tổng thống yếu thế sẽ ảnh hưởng như
thế nào đến tư thế đối ngoại của Hoa Kỳ? Bàn về vấn đề này không ai đủ
thẩm quyền bằng Henry Kissinger, bộ trưởng ngoại giao trong thời gian tổng
thống Nixon bị điều tra. 
Trên tờ
Newsweek số ngày 19/10/98 ông Kissinger viết:
"Trường hợp dẫn tới hai cuộc điều tra truất phế rất khác nhau. Và tình hình của thế giới cũng rất khác nhau." Điều
Kissinger lo lắng nhất vào đầu thập niên 70 là Liên bang Xô viết lợi dụng tình
hình nội bộ của Hoa Kỳ để tạo ra những căng thẳng trên thế giới để thử khả năng
đáp ứng của tổng thống Nixon. Điều này không xảy ra vì Liên bang Xô viết đoán
tổng thống Nixon sẽ đáp ứng mạnh mẽ và Liên bang Xô viết biết mình không đủ
sức. Trái lại điều bất ngờ đối với Kissinger là "Hà Nội
đã khai thác bất hòa nội bộ của Hoa kỳ để hoàn thành cuộc chinh phục Đông
Dương." 
Theo Kissinger,
cái khó trước mắt của Clinton là Hoa Kỳ dù không phải đượng đầu với một siêu
cường nào, vì sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ chẳng còn siêu cường nào khác
trên thế giới, nhưng phải đương đầu với nhiều thế lực cục bộ có thể mưu mô và
liều lĩnh hơn Hà nội như Saddam Hussein và Bắc Triều Tiên. Nhưng cái dễ của Clinton là nếu Saddam Hussein giở trò
chẳng hạn, tổng thống Clinton sẽ được nhiều sự ủng hộ của
dân chúng Hoa Kỳ và của các nước đồng minh nếu hành động mạnh trong khi Nixon
không có sự ủng hộ đó khi mạnh tay với Hà nội. 
Kissinger nghĩ
rằng có thể có nhiều bất ngờ trong tình hình quốc tế trong năm 1999 và khó đoán
được cách đáp ứng của tổng thống Clinton vì chính phủ Clinton không có một chương trình đối
ngoại rõ ràng như của Nixon. Đề tài tranh cử của Nixon là đối
ngoại, trong khi Clinton tranh cử
với chính sách kinh tế và các vấn đề nội bộ. Kissinger
tin rằng trong thập niên 1970 ông đại diện được cho Nixon trong lĩnh vực đối
ngoại nhờ tư thế cá nhân ông và vì ông hiểu rõ quan niệm đối ngoại của Nixon.
Trong khi đó không có ai trong số các phụ tá của tổng thống Clinton có uy tín
và kinh nghiệm về đối ngoại như ông, và cũng không có một bộ máy giải quyết các
khủng hoảng quốc tế ngoài bộ máy hành chánh thông thường vốn thiếu sự nhạy bén
cần thiết.
Ngoài các khác
biệt do bối cảnh quốc tế, Henry Kissinger cho rằng không có sự khác biệt về mặt
tâm lý giữa hai vị tổng thống khi đang bị điều tra truy tố. Sự
truy tố sẽ làm cho tổng thống Clinton không thể
để hết thì giờ và trí tuệ vào công việc quốc gia, như đã xẩy ra với Nixon. Kissinger viết: "Cả hai
vị tổng thống trở thành hành khách của một đoàn tàu đang xuống dốc thay vì là
kẻ lái tàu." 
Kissinger khẳng định rằng bất cứ tổng thống nào cũng là người có cá
tính mạnh, họ đã phấn đấu để trở thành tổng thống vì muốn lãnh đạo, thích quyền
hành và muốn có cơ hội phục vụ quốc gia. Do đó, điều đáng lo là nếu Clinton nhận ra rằng mình chẳng còn
lãnh đạo được ai và sự phục vụ quốc gia trở thành trò cười của lịch sử, chỉ còn
quyền hành pháp định là thứ sờ mó được thì quyền hành này có thể trở thành một
vũ khí nguy hiểm. Kissinger không quên trước khi tổng thống Nixon từ chức có
một lần Alexander Haig, Tham mưu trưởng Bạch cung dò ý Kissinger xem có nên đưa
Sư đoàn 82 Dù về giữ an ninh thủ đô không, và cũng vì sợ Nixon dùng quyền Tổng
tư lệnh quân đội điều quân về thủ đô, bộ trưởng quốc phòng James Schlesinger
sau một cuộc họp tại Bạch cung trở về Ngũ giác đài ra lệnh cho tham mưu trưởng
các binh chủng phải báo cáo cho ông bất cứ lệnh gì liên quan đến quân đội xuất
phát từ Bạch cung ("Watergate" by Fred Emery, Random House, 1994,
trang 447). Trong thời gian Watergate, khi Nixon thấy các
chính sách đối ngoại không còn hữu hiệu, ông chuyển sự cương quyết vào việc
giải quyết các vấn đề đối nội. Kissinger ghi nhận sự
việc này qua việc tiến trình điều tra càng đi xa, Nixon càng ít gọi nói chuyện
với ông và cũng ít đòi hỏi sự bàn luận để tìm giải pháp tốt nhất trước một
quyết định về đối ngoại. 
Điều quan trọng
nhất ảnh hưởng đến uy tín quốc gia là các nước đồng minh tìm một khoảng cách
vừa phải với Hoa Kỳ, Họ không muốn những ràng buộc lâu dài với một tổng thống
đang bị truy tố. Họ không quên các cam kết của tổng thống
Nixon với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu khi ký hiệp định Paris chấm dứt
chiến tranh Việt Nam về sau
không được tôn trọng. Điều này theo Kissinger sẽ đậm hơn đối
với Clinton vì Clinton vốn ít uy tín hơn Nixon và
cũng ít kinh nghiệm về đối ngoại hơn. 
Trở về cục diện hiện nay, ông Kissinger nghĩ rằng định chế chính
trị của chức vụ tổng thống vẫn dành cho Clinton tư thế để
quyết định.
Nhưng để tránh cho Hoa kỳ bị khai thác phía đối lập cần cho ít nhất Saddam
Hussein và Bắc Hàn biết Hoa Kỳ sẵn sàng hành động mạnh nếu họ muốn tạo bất ổn
đe dọa quyền lợi của Hoa Kỳ. Và Hành Pháp, Quốc Hội và giới truyền thông cần
phân biệt đâu là đối ngoại đâu là nội bộ. 
Kissinger đề
nghị thành hình hai cơ cấu "giúp" tổng thống Clinton về đối ngoại: 
* Tổng thống
thành lập một Ủy ban An ninh Quốc gia Đặc biệt nằm
trong Hội đồng An ninh Quốc gia để giải quyết kịp thời các khủng hoảng đối
ngoại trước mắt và trong ngắn hạn. 
* Quốc hội
thành lập một Ủy ban lưỡng đảng để nghe báo cáo định kỳ của Hội Đồng An Ninh
Quốc gia để tránh trước các bất ngờ và các lời tuyên bố có tính cách phục vụ
quyền lợi đảng phái. 
Henry Kissinger kết luận rằng thủ tục truất phế
tổng thống là một trình trình hiến định và chỉ các quốc gia dân chủ vững vàng
mới có thể làm mà quốc gia không sụp đổ. Nhưng muốn được vậy thủ tục
truất phế phải được tiến hành nhanh chóng trong tinh thần phục vụ quốc gia.
(Oct. 1998) 
 
 
 
  | Trần Bình Nam | http://www.vnet.org/tbn |