Trần Bình 
            Dư luận thế
giới cho rằng cuộc chiến Iraq là con đẻ của một số nhân vật trong và ngoài
chính phủ theo hệ phái tân bảo thủ (neoconservative - neocons) như
Donald Rumsfeld, Dick Cheney, Paul Wolfowitz, John Bolton, Douglas Feith,
Richard Perle, Max Boot và William Kristol … để chống lại nạn khủng bố, đồng thời
phát huy dân chủ cho vùng Trung đông làm cột trụ bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ. Dư
luận cũng cho rằng cuộc chiến tranh Iraq chỉ là sự khởi đầu sự bành trướng ảnh
hưởng của Hoa Kỳ bằng sức mạnh quân sự, và biến cố 11 tháng 9 năm 2001 chỉ là một
lý cớ.
            Nhưng sự hiện hữu của khuynh hướng tân bảo thủ không phải là một biến
cố bất thường. Nó có nguồn gốc từ thế kỷ trước kinh
qua những giai đoạn bành trướng đế quốc của Hoa Kỳ, và là một sự tái diễn của lịch
sử. Vấn đề là: nếu tổng thống George W. Bush nắm vững những bài học quá
khứ thì sự tái diễn của lịch sử sẽ không diễn ra theo
chiều hướng bất lợi cho Hoa Kỳ như cuộc chiến 
            Có hai bài học lịch
sử của Hoa Kỳ, một tại Phi Luật Tân, một tại Mexico, và một bài học lịch sử của
Anh quốc tại Trung đông. Năm 1898 Hoa Kỳ đánh bại Tây ban Nha và đuổi Tây Ban
Nha ra khỏi quần đảo Phi Luật Tân. Nhưng thay vì trả độc lập
cho Phi, tổng thống William McKinley (một nhiệm kỳ 1897-1901) bổ nhiệm một vị
toàn quyền và biến Phi thành một thuộc địa. Nhiều năm sau đó Hoa Kỳ thẳng
tay đàn áp phong trào nổi dậy đòi độc lập, một phong trào trước đó Hoa Kỳ đã
khuyến khích và giúp đỡ chống lại người Tây Ban Nha. Sau 14 năm Hoa Kỳ mới dập tắc
được phong trào giành độc lập của người Phi với một đoàn quân viễn chinh
120.000 người, 4.000 binh sĩ Mỹ tử thương, và 200.000 người Phi gồm quân nổi dậy
và thường dân bị giết. Năm 1935 tổng thống Franklin Roosevelt
biến Phi thành một vùng đất liên hiệp (commonwealth) chuẩn bị trao trả độc lập
cho Phi. Năm 1942 Nhật Bản chiếm đóng Phi, và được Hoa Kỳ giải phóng và
ban bố độc lập năm 1945 với một thể chế dựa vào thể chế chính trị Hoa Kỳ. 
            Chiến tranh tại Phi vừa dứt, năm
1913 tổng thống Woodrow Wilson (hai nhiệm kỳ tổng thống 1913-1921) đưa quân vào
Mexico nói là để tái lập dân chủ ở đó sau khi tướng Victoriano Huerta ám sát
tổng thống dân cử Francisco Madero và đoạt quyền bính.  Nhưng thay vì được đón tiếp
như một đoàn quân giải phóng, quân đội Hoa Kỳ đã gặp phải sự kháng cự của người
Tiếp đến là trận Thế giới đại chiến thứ nhất (1914-1918) mà nguyên
nhân một phần do sự cạnh tranh bành trướng đế quốc của các nước châu Âu, làm
cho tổng thống 
Bài học thứ ba của Anh
quốc tại Trung đông. Năm
1914, Thế chiến I bùng nổ, Anh quốc chiếm Trung đông để bảo đảm nguồn cung cấp
nhiên liệu, đồng thời giải quyết sự tranh chấp giữa người A Rập và người Do
thái tại 
Các cuộc chiến tại Phi và 
            Nguyên thủy, cho đến
cuối thế kỷ 20, Hoa Kỳ là một nước chủ trương chống thuộc địa theo truyền thống lịch sử lập quốc (chống đế quốc Anh để
giành quyền độc lập). Nhưng sau khi thắng Tây ban Nha trong cuộc chiến tranh Mỹ-Tây
Ban nha (1898) tổng thống William McKinley của Hoa Kỳ thấy có một cơ hội biến một
phần các thuộc địa cũ của Tây Ban Nha thành thuộc địa của mình. Tại Hoa Kỳ xuất hiện một khuynh hướng thuộc địa chủ trương rằng Hoa
Kỳ không thể để cho các quốc gia Tây phương như Anh, Pháp, Đức, Nga, Nhật chia
nhau thống trị thế giới. Và rằng, Hoa Kỳ cũng cần thuộc
địa để bành trướng thế lực quân sự, tạo thị trường để đầu tư và truyền bá văn
minh Tây phương. Khuynh hướng bảo thủ bắt đầu. Hai nhân vật ủng hộ chính sách thuộc địa này không ai khác hơn là
phụ tá bộ trưởng bộ Hải quân Theodore Roosevelt và sử gia Woodrow 
            Điều làm cho tổng
thống Theodore Roosevelt lo ngại là tại Á châu Nhật Bản đánh bại Nga năm 1905,
trong khi tại Âu châu các đế quốc thuộc địa chỉ chực đánh nhau vì đụng chạm quyền
lợi của nhau liên hệ đến việc bành trướng thuộc địa. Cho nên
tổng thống 
            Chủ thuyết 
            Nhưng cuộc chiến
tranh lạnh với Liên bang Xô viết làm cho Hoa Kỳ không thể thẳng tay áp lực Anh và Pháp, nhất là Pháp vì Hoa Kỳ cần đồng minh
tại Âu châu để đối đầu với Liên bang xô viết. Về phần mình, Hoa Kỳ cũng không
thể để cho phong trào giành độc lập tại các thuộc địa bị các tổ chức thân Mác
xít thao túng nên đã dùng sức mạnh của mình để giữ các quốc gia cựu thuộc địa tại
Nam Mỹ, Á châu và Trung đông trong vòng ảnh hưởng. Hoa Kỳ thống
trị các quốc gia này bằng viện trợ kinh tế. Sức mạnh
quân sự chỉ dùng trong trường hợp tối cần thiết. Chính
sách này gọi là chính sách tân thuộc địa đã mang chiến tranh lạnh đến
Nam Mỹ, Á châu và Trung đông. Thí dụ rõ nhất là cuộc chiến tranh Việt
Nam khi Hoa Kỳ giúp đỡ Pháp thiết lập lại chế độ thuộc địa tại đó và sau khi
Pháp bại trận (Điện Biên Phủ 1954) đã đổ quân đến bảo vệ miền Nam Việt nam.
            Cuối thập niên
1980 Liên bang Xô viết sụp đổ, Hoa Kỳ có mọi điều kiện thực hiện chủ thuyết 
            Tuy nhiên, khuynh
hướng chống chủ thuyết Wilson vẫn còn là một chủ lực trong sinh hoạt chính trị
Hoa Kỳ. Đó là những Paul Wolfowitz, John Bolton, Douglas Feith, Richard Perle
trong chính quyền và Max Boot (của  tờ Wall Street Journal) và
William Kristol (của tờ Weekly Standard) trong giới truyền thông họp
thành nhóm tân bảo thủ (neocons). Nhóm này nắm cơ hội vụ khủng bố ngày 11 tháng
9 năm 2001 để thuyết phục tổng thống George W. Bush và những phụ tá như phó tổng
thống Dick Cheney, bộ trưởng quốc phòng Donald Rumsfeld và cố vấn an ninh quốc
gia Condoleeza Rice gạt bỏ chủ thuyết Wilson và bắt đầu thời đại bành trướng thế
lực của Hoa Kỳ bằng sức mạnh quân sự, có sự đồng thuận của quốc tế thì tốt, nếu
không thì cũng không phải là điều phải quan tâm. Nhóm neocons tại Hoa Thịnh
Đốn không nhìn sự thành hình của tổ chức Al Qaeda như một phản ứng của người Hồi  giáo đối với các
chính sách của tây phương, nhất là thái độ bênh Do Thái của Hoa Kỳ đối với cuộc
tranh đấu lập quốc của người Palestine, mà cho rằng Al Qaeda chỉ là con đẻ của
một con người bệnh hoạn (Osama bin Laden), nuôi dưỡng hận thù vì ghen tức với sự
“thành công vật chất và sự tự do” của Mỹ quốc.
            Cho nên cuộc tấn công lật đổ Saddam
Hussein (mà không có sự đồng thuận quốc tế) sau khi chiến thắng dễ dàng tại
Afghanistan (với sự đồng thuận của quốc tế) với lý do (không vững chắc) Saddam
Hussein có liên hệ với al Qaeda và có vũ khí giết người tập thể (có thể cung
cấp cho al Qaeda để khủng bố Hoa Kỳ) chỉ là một bước tự nhiên.
            Tuy nhiên nếu
nghiên cứu kỹ bài học Phi Luật Tân và Mexico của mình và bài học Trung đông 50
năm trước của người Anh tổng thống Bush sẽ không vội vàng đánh Iraq mà không có
sự chấp thuận của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, với niềm tin tưởng hảo huyền
rằng dân chúng Iraq sẽ mua hoa và rước đèn đón mừng đoàn quân giải phóng Hoa Kỳ.
            Vị tổng thống tương
lai của Hoa Kỳ, dù đó là George Bush hay John Kerry cũng không thể làm ngơ trước
những kinh nghiệm quá khứ của hai tổng thống Theodore Roosevelt và Woodrow
Wilson để hình thành một chính sách Wilsoniniasm mới, nếu như sự kết
thúc cuộc chiến Iraq không làm cho Hoa Kỳ quá tổn thương.
Trần
Bình 
Tài liệu tham khảo:
1.     
“Imperial Amnesia” by John B. Judia, tạp chí Foreign
Policy July/August 2004 (John Judy 
2.     
“Fumbling the moment” tuần báo The Economist 
3.     
Presidential Biographies, 
| Trần Bình  | http://www.vnet.org/tbn |