Luật Quốc
Tịch Việt
Trần Bình
Ngày 20 tháng 5 năm 1998, Quốc hội Việt
Bộ luật gồm 6 Chương, 42 Điều. Chương I: Những Quy Định Chung; Chương II: Có
Quốc Tịch Việt
Sau năm 1975,
và trước khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa cho nước ngoài đầu
tư, áp dụng kinh tế thị trường vào năm 1987, chính quyền cộng sản Việt Nam
không quan tâm đến vấn đề quốc tịch, cho rằng người Việt bỏ nước ra đi năm 1975
và những người vượt biên sau đó là thành phần xấu không đáng để tâm, đừng nói
đến vấn đề quốc tịch.
Nhưng từ 1987
chính quyền Hà nội có nhu cầu ve vãn người Việt hải ngoại, khuyến khích họ về
thăm nhà, tăng cường các dịch vụ liên hệ để thu ngoại tệ, vấn đề quốc tịch của
người Việt ở hải ngoại được đặt ra.
Trong thời gian đầu Nhà nước cộng sản Việt
Trong thời gian
thương thuyết tái lập bang giao với Hoa Kỳ, qua nhiều căng thẳng cuối cùng
chính quyền Hà Nội công nhận tư cách quốc tịch Mỹ của người Việt có quốc tịch
Hoa Kỳ về mặt thông báo và thăm viếng với viên chức Hoa Kỳ trường hợp bắt giữ
các đối tượng trên vì nghi phạm tội khi đang ở Việt Nam, nhưng vẫn không từ bỏ
lập trường xem những đối tượng trên còn có quốc tịch Việt Nam. Điều này cũng áp dụng cho những người gốc Việt
Ba năm qua, từ
ngày thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ chính quyền Hà nội bắt đầu tham
khảo ý kiến các luật sự trong và ngoài nước để xác định vấn đề quốc tịch của
người Việt hải ngoại. Kết quả là "Luật Quốc tịch Việt
Luật bao gồm
nhiều lĩnh vực liên quan đến quốc tịch, nhưng do quá trình và nhu cầu, người ta
chờ đợi "Luật Quốc tịch Việt
Đọc "Luật Quốc tịch Việt
Về định nghĩa
không rõ ràng:
Điều 2 là Điều
"Giải thích từ ngữ" định nghĩa nơi Điều 2(3) "Người Việt Nam ở
nước ngoài" là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam đang "thường
trú" hay "tạm trú" tại nước ngoài. Sau đó tại Điều 2(4) định
nghĩa "Người Việt Nam định cư tại nước ngoài" là "công dân Việt
Nam và người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài".
Trong Việt Ngữ chữ "thường trú" ở nước ngoài có nghĩa "sinh sống
lâu dài ở nước ngoài" nên theo định nghĩa trên "Người Việt Nam ở nước
ngoài" hay "Người Việt Nam định cư tại nước ngoài" cũng chỉ là
một.
Nếu nhà làm
luật hiểu "thường trú tại nước ngoài" không phải là "cư trú, làm
ăn, sinh sống tại nước ngoài" thì phải định nghĩa "thường trú tại
nước ngoài" là gì. Trong bản văn không thấy chỗ nào định nghĩa cụm từ
"thường trú tại nước ngoài"
Danh từ
"người gốc Việt
Về hành văn mơ
hồ:
Điều 3
"nguyên tắc một quốc tịch" ghi "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt
Điều 14 nói về
"Người có quốc tịch Việt Nam" ghi "Người có quốc tịch Việt Nam
bao gồm người đang có quốc tịch Việt Nam cho đến ngày luật này có hiệu lực
..."
Đây là Điều mơ hồ nhất của bộ luật. Lấy thí dụ hai vợ chồng ông
bà Nguyễn Văn A sinh đẻ tại Việt Nam, sau đó hoặc vượt biên, hoặc đi theo diện
đoàn tụ sang định cư tại Hoa Kỳ và nhập quốc tịch Mỹ trước ngày 20/5/98 là ngày
"Luật Quốc Tịch Việt Nam" được ban hành. Theo Điều 16 " ... sinh
ra có cha mẹ đều là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam ... không kể
... sinh trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam" ông bà Nguyễn Văn A vốn là
công dân Việt Nam, và theo Điều 14 nói trên ông bà Nguyễn Văn A sau ngày
20/5/98 vẫn là "người có quốc tịch Việt Nam". Cũng theo Điều 16 các
con của ông bà Nguyễn Văn A sinh ra tại Hoa Kỳ (theo luật Mỹ đương nhiên có
quốc tịch Mỹ) cũng vẫn được xem là người có quốc tịch Việt Nam.
Nhưng nếu vậy thì "nguyên tắc một quốc tịch" áp dụng ở
chỗ nào? Đúng là một mê hồn trận. Tại các quốc gia
dân chủ, quốc hội thảo luận luật, và khi có điều gì không rõ quan tòa có thể
dùng biên bản ghi nội dung các cuộc thảo luận để tìm hiểu ý muốn của nhà làm
luật. Tại Việt
Sự
thiếu sót của "Luật Quốc Tịch Việt Nam" nếu không phải do khả năng
làm luật yếu kém của những người trong tòa nhà làm luật của Việt Nam hiện nay
vì nước nhà chưa có dân chủ, thì nó là bằng chứng chính quyền cộng sản Việt Nam
không thành thật với dân, ít nhất là với người Việt đang sinh sống ở nước ngoài
và với cộng đồng quốc tế. (August 1998)
Trần Bình
|
http://www.vnet.org/tbn |