LY
NƯỚC LƯNG DẦN
Trần Bình 
Lời nói đầu:  Về thăm quê hương lần này (tháng 3 và tháng 4 năm 2001) tôi ít xúc động
hơn chuyến đi cách đây 2 năm. Lần ấy tôi được nhìn lại đất nước Việt Nam sau 22
năm xa cách, và tôi bàng hoàng lâng lâng khi người sĩ quan công an hải quan ở
Tân Sơn Nhất đóng dấu vào chiếu khán cho phép tôi nhập cảnh.  Lần này thủ tục nhập cảnh đơn giản hơn. Người
công an hải quan trẻ tuổi chỉ hỏi tôi: Bố về bao lâu?
Tôi trả lời 5 tuần. Anh công an liếc nhanh vào ngày
tháng tôi ghi trên phiếu nhập cảnh, đóng dấu rồi cho tôi ra cổng.  Sau 2 ngày ở lại Sài gòn với gia đình  một người cháu tôi ra Nha Trang thăm ông anh
ruột và bạn bè, sau đó ra Hà Nội viếng vịnh Hạ Long và đảo Cát Bà, lên Lạng Sơn
thăm Chi Lăng và ải Nam Quan. Tôi định đi viếng Điện Biên Phủ
nhưng thời gian không cho phép. Từ Hà nội muốn đi Điện Biên Phủ có thể
dùng đường bộ qua dịch vụ du lịch,  đi về
hai ngày đường , ở lại hai ngày, hoặc dùng Air Việt Nam mỗi tuần có hai chuyến
bay. Bay lên ở lại chờ về chuyến sau. Cách nào cũng mất  ít nhất 4 ngày. Từ Hà nội tôi về Huế
thăm bà  chị
ruột, và mộ ba mẹ. Trở lại Nha Trang mấy tuần, có vợ chồng bạn Hồng Giũ Lưu và
Diệu Trang từ Sài gòn bay ra chơi và tắm biển 5 ngày. Diệu Trang nguyên Hiệu Trưởng
trường Nữ Trung Học Nha Trang từ 1973 đến 1975 nên thầy cô cũ và bạn bè của bà
làm Lưu và tôi cũng bận bịu lây. Những ngày mùa Xuân nóng ở Nha Trang chóng qua
tôi vào Sài Gòn để chuẩn bị trở về Hoa Kỳ. Cùng đi về Việt Nam lần này với tôi
có Cương, con trai, vợ chồng Phương Tâm và Paul, con gái đầu. Cả ba đều trở về Hoa kỳ trước tôi mấy ngày. 
Chuyến đi của
tôi được ghi lại sau đây. 
BẠN CŨ NGUYỄN XUÂN THÂM
Trước khi lên đường bạn Quỳnh Tiêu ở 
Ra Hà Nội, vừa tới khách sạn tôi nhận được điện thoại của Thâm. Nhà
Thâm ở đường Bà Triệu không xa khách sạn Phú Gia nơi tôi đang ở,  nên 10 phút sau
chúng tôi gặp nhau. Bốn mươi bảy năm! Xa nhau từ lúc trên dưới 20 tuổi bây giờ đã
thành  hai ông
già. Nguyễn Xuân Thâm đen và già khọm đi. Thâm kể cho tôi nghe quảng đời từ lúc ra Bắc vừa học vừa làm để
kiếm sống. Thời gian mới ra ở Thanh Hoá hằng ngày vào
rừng lấy củi bán cho dân. Hết cấp trung học được đảng cho đi du học ở
Liên bang Xô viết (bây giờ là Liên bang Nga) lấy bằng Phó Tiến Sĩ. Về  nước  dạy học và viết văn. Sau năm
1975 được đặc phái đi làm nhiệm vụ quốc tế tại 
Hai ngày trước khi Thâm vào bệnh viện,  tôi mời Thâm dùng cơm trưa. Thâm chọn
một tiệm bán thức ăn biển bên bờ Hồ Tây. Từ đường Bà
Triệu xe taxi đưa chúng tôi chạy dọc đê sông Hồng. Đê là một xa lộ kiên cố,  xe cộ đông đúc. Nếu
thỉnh thoảng không có những lối nhỏ chạy xuống bờ sông thì khó biết đây là một
con đê. Mười năm trước đê còn bằng đất và những người có thế
lực ở Hà nội đã chiếm đất xây nhà bên bờ đê. Trước sự
than vãn của dân Hà Nội vì nguy cơ vỡ đê chính quyền Hà nội đã triệt hạ một vài
khu nhà của những người kém thế nhất. Và rồi con đê được biến thành xa
lộ kiên cố để yên lòng dân và - nhất cử lưỡng tiện - để yên lòng các chủ nhân
những ngôi nhà đồ sộ ở mé đê.. 
Xe taxi chạy qua đường Thanh Niên, một con đường đá tráng nhựa khá
rộng nằm giữa Hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Thâm nói vào tai
tôi: “Mình
từng đổ mồ hôi ở đây. Đường này ngày trước là đường Cổ Ngư  nhỏ hẹp làm đề tài cho nhiều thi nhân
yêu Hà Nội. Nó biến thành đường Thanh Niên năm 1955 do bàn tay lao động của
thanh thiếu niên Hà Nội và của các tỉnh miền Bắc đổ về, cùng với đoàn người trẻ
từ miền 
Qua khỏi chùa Trần Quốc taxi đưa chúng tôi chạy qua khách sạn Thắng
Lợi vòng lên phía bắc Hồ Tây chạy ra Phủ Tây Hồ. Phủ Tây Hồ là một điện thờ nằm
cuối một doi đất nhỏ chọc thẳng ra giữa Hồ Tây. Một con đường tráng nhựa nhỏ chạy
dài giữa doi đất . Hai bên nhìn ra Hồ Tây bát ngát
phẳng lặng là các tiệm bán đặc sản đồ biển sát cánh nhau. Phía
bắc Hồ Tây nhiều biệt thự xây bằng gạch đỏ chói xúm xít quanh bờ hồ. Nhớ
một thời có tin đồn các Ủy viên Trung ương đảng có thế lực chiếm những vùng đẹp
nhất quanh bờ hồ xây dựng nhà riêng tôi hỏi người tài xế taxi một cách vô thưởng
vô phạt: “Biệt
thự của những ai mà đẹp thế?” Do dự một chút anh tài xế dè dặt trả lời: “Nhà của dân.” Nguyễn Xuân Thâm tiếp “Nhà của dân, của dân 'gian' ấy
mà!’
Trên đường trở về Thâm bảo xe taxi chạy
qua công viên Lenin. Giữa công viên chiếc tượng Lenin bằng đá sừng sững, cô đơn,
lưng tựa vào một hàng cây xanh thẳng tắp. Thâm bảo tôi: “Bạn nhìn tượng Lenin kìa. Đó là bức tượng duy nhất còn lại trên thế giới. Nước ta cái gì cũng khác người!” Tôi
im lặng hiểu Thâm muốn nói gì. Người tài xế taxi cũng
im lặng nốt. Năm 1991 sau cuộc đảo chánh lật đổ
Gorbachev bất thành, Gorbachev ra lệnh giải tán đảng cộng sản Liên xô dân chúng
Mạc Tư Khoa xuống đưòng giật sập tượng Lenin ở trung tâm thành phố. Dân
các nước Đông Âu nhanh chóng theo gương dân Mạc Tư
Khoa. Theo yêu cầu của Thâm taxi đưa anh đến bệnh viện nơi
anh sẽ được mổ. Bệnh viện nằm đối diện với Hà Nội Towers trước kia là
nhà lao Hỏa Lò nơi từng giam giữ các nhà cách mạng chống Pháp và gần đây nhất
giam phi công John McCain sau trở thành Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ. Nhà thiết kế Hà
Nội Towers để dành một dãy nhà gồm mấy căn mái ngói và một tháp canh để - theo
tài liệu - nhớ đến tội ác của đế quốc. Tôi hỏi Thâm xuống
bệnh viện làm gì. Thâm nói: “Mình vào thay áo quần bệnh
nhân nằm một chút rồi về. Nếu không giữ chỗ mỗi ngày người
khác sẽ giành mất giường khi mổ không có chỗ nằm” Nghe Thâm giải thích tôi vẫn
không hiểu nổi cách quản trị của các bệnh viện ở Hà Nội. Thâm bắt tay tôi và xuống xe. Tôi bùi ngùi nhìn theo
Thâm bước vào bệnh viện. Ngày mai tôi vào Huế. 
ẢI 
Nếu không có vụ ghi vé máy bay đi Trung quốc của Phương Tâm và Paul
trục trặc tôi đã không có dịp thăm Aûi Nam Quan. Không lấy được vé chuyến bay
Hà Nội - Côn Minh như  đã định, Phương
Tâm và Paul quyết định dùng đường bộ đi Trung quốc qua ải Nam Quan. Tôi và Cương tháp tùng và nhân thể thăm cửa ải lịch sử Việt Trung.
Ải Nam Quan còn được gọi là cửa Hữu Nghị để ghi tình bằng hữu
giữa Trung quốc và Việt Nam. Hữu nghị nhưng vẫn đánh nhau trong suốt
chiều dài của lịch sử . Trận đánh
gần nhất cách đây hơn 20 năm. Hằng vạn quân Trung hoa tràn qua san bằng
hai thành phố Đồng Đăng và Lạng Sơn, tiến sát Bắc Giang, uy hiếp thành phố Hà
Nội. Nếu Trung quốc không sợ Liên bang Xô viết đánh úp sau lưng phá hủy cơ sở
nguyên tử của mình có lẽ Trung quốc đã tiến xuống Hà Nội.
Quốc lộ số 1 nối liền Hà Nội - Lạng Sơn dài chừng
150 cây số đã được trải nhựa và nới rộng. Xe chạy hai chiều, hai bên có lối dành cho xe gắn máy, xe đạp và người đi bộ. Xe du
lịch thuê bao có thể chạy 80 cây số giờ. Vào tỉnh Lạng sơn tuy đường núi
quanh co hiểm trở xe vẫn còn chạy được 40 cây số. Bỏ đồng
bằng Bắc Giang vào tỉnh Lạng Sơn phong cảnh thật là hùng vĩ.
Những ngọn núi đá cao thấp san sát chen nhau điểm giữa
những cánh rừng thưa tưởng như một vịnh Hạ Long khác trên đất liền nếu rừng
ngập nước. Qua ải Chi Lăng, nơi sáu thế kỷ trước vua Lê Lợi
giết Liễu Thăng trên vách núi còn ghi trang sử cũ. Nhìn đồi đá cheo leo lối đi hiểm trở tôi thầm phục người xưa khéo chọn chỗ
phục kích giết tướng địch và tưởng tượng trước mắt mình hàng ngàn chiến sĩ anh
dũng đang ào ạt lăn xả vào đoàn quân Bắc xâm lăng. Tướng Liễu Thăng chết, Việt 
Đây rồi Lạng Sơn, thành phố lớn địa đầu! Năm 1950
Lạng Sơn chứng kiến cuộc rút lui thê thảm của quân đội viễn chinh Pháp. Năm 1979 Lạng Sơn bị quân Trung quốc san thành bình địa. Nhà
cửa đã được tạm xây cất lại cùng với thị trấn biên giới Đồng Đăng. Lạng Sơn và Đồng
Đăng phố xá luộm thuộm đây đó còn dấu vết đá tảng, gạch vụn của những vụ xây
cất  dở dang. Đường phố
bụi mờ nóng như lửa của tháng Tư vùng núi. Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa, ca
dao hát vậy nhưng chợ Kỳ Lừa không còn ở Đồng Đăng. Kỳ Lừa nằm sừng sững giữa
thành phố Lạng Sơn. Hỏi tại sao? Dân địa phương không ai giải
thích. Sinh hoạt buôn bán vùng biên giới quá bận rộn,
và họ còn bận tâm xây dựng nhà cửa. Rời Lạng Sơn trực chỉ hướng Bắc lên
biên giới, cột cây số đường ghi: Hữu Nghị Quan 11 cây số, Đồng Đăng 8 cây số.
Một trạm hải quan lớn nằm giữa Lạng Sơn và Đồng Đăng. Hàng trăm xe tãi từ Trung quốc chở hàng vào nằm chờ khám biến một
khoảng đường quốc lộ dài gần một cây số thành một chợ nhỏ, đường sá bụi mờ như
một đoàn quân chờ ra mặt trận. Một mặt trận kinh tế.
Số hàng chính thức qua biên giới và hàng trăm tấn hàng hằng ngày qua các lối
khác giữa biên giới dài giữa hai nước Việt Trung là một mặt trận kinh tế lớn
của Việt Nam. 
Qua khỏi Đồng Đăng tôi nóng lòng xem ải Nam Quan. Sách sử địa lớp ba thời Pháp
thuộc in hình ải Nam Quan uy nghi như  cửa Thượng Tứ hay cửa Đông Ba của kinh
thành Huế. Trạm hải quan gồm một ngôi nhà trệt rộng thênh
thang có đủ phòng sở quen thuộc của một cơ sở hải quan biên giới nằm bên trái
quốc lộ số 1 cách biên giới chừng trăm thước. Tận cùng
của quốc lộ là cổng biên giới. 
Cổng đơn giản chỉ là một thanh gỗ dài vắt ngang qua quốc lộ quay lên
xuống được và một trạm gác nhỏ do một tiểu đội công an
canh giữ. Phóng mắt nhìn phương Bắc sau trạm gác nhỏ tôi
không thấy hình bóng gì của ải Nam Quan. Tôi hỏi một sĩ quan hải quan
trong khi Phương Tâm và Paul làm thủ tục nhập cảnh: “Tôi muốn xem Hữu Nghị Quan có được
không? Anh sĩ quan trẻ tuổi chỉ chiếc cổng biên giới trả lời: “Sau chiếc cổng kia 20 thước là hết biên giới nước ta. Hữu
Nghị Quan nằm sâu trong đất Trung quốc ở đây không thấy được.” Còn thắc mắc nhưng tôi không hỏi thêm. Tiễn vợ chồng Phương
Tâm tay xách lưng mang hành lý bước qua biên giới tôi
thấy cách một độ đường sau cổng nhỏ một bệ đá xi măng bên vệ đường ghi nguệch
ngoạc: Cửa Hữu Nghị. Hai năm trước Việt Nam và Trung quốc ký một thỏa ước về
biên giới trên đất liền. Bản văn của thỏa ước không được phổ
biến, và có tin đồn Việt Nam đã nhường cho Trung quốc nhiều cao điểm biên giới.
Mới đây sau Đại Hội 9 của đảng Cộng sản Việt Nam, Lê Khả Phiêu mất chức Tổng bí
thư. Nội bộ đảng kết ông Lê Khả
Phiêu 4 tội trong đó có tội đã nhượng bộ quá nhiều cho Trung quốc khi ký thỏa ước
biên giới trên đất liền. Sự thật còn chờ đảng phổ biến
bản thỏa ước biên giới Việt-Trung. Như nhận xét của giáo sư  Nguyễn Xuân Thâm,
nước ta cái gì cũng khác người. Một thỏa ước biên giới liên quan đến vận mệnh
và an nguy của đất nước dân cũng không có quyền biết!
CHUYẾN TÀU THỐNG NHẤT S7:
Hôm 27/3  Cương
và tôi đáp chuyến tàu Thống Nhất  S7 từ
Huế đi Nha Trang. Có hai loại tàu Thống Nhất xuyên Việt.
Loại mới nhất chạy nhanh, chỉ ngừng ở một số ga chính như
Vinh, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang. Loại thường chạy chậm hơn và ngừng ở  nhiều ga. S7 là tàu Thống Nhất loại thường
từ  Huế vào Nha Trang ngừng ở Lăng
Cô,  Đà Nẵng, Tam Quan, Diêu Trì, Qui Nhơn,
Tuy Hòa. Tôi định lấy chuyến tàu Thống Nhất chạy nhanh nhưng vì một lý do chợ đen
chợ đỏ, cô bán vé ở ga Huế không muốn bán cho chúng tôi bảo rằng chuyến tàu tôi
muốn đi không đáp tại Nha Trang. Sau này hỏi nhân viên hỏa xa
trên tàu tôi biết chuyến tàu Thống Nhất nào cũng đều ghé Nha Trang. Nhưng chuyện đã rồi. 
Ngăn phòng ngủ của chúng tôi có 2 dàn, mỗi dàn có
đến 3 giường chồng lên nhau khá chật. Cương và tôi mỗi người một giường
dưới cùng. Ngăn phòng đã có 3 người khách. Bên
trái, chị Lan 45 tuổi giáo sư trường đại học sư phạm Kontum nằm giường trên,
chị Vân 37 tuổi nhà báo quân đội nằm giường giữa. Bên phải, cũng giường giữa,
anh Vinh, 35 tuổi Trung úy công an; giường trên cùng còn  trống dành cho bà Hồng một phụ nữ  người Huế khoảng 55 tuổi trông còn xuân sắc
mới lên tàu cùng với Cương và tôi ở ga Huế. Lên tàu bà Hồng leo
lên giường ngủ, cằn nhằn: “Cái nước gì mà mua vé tàu cũng phải đút lót. Cần đi
gấp chạy vạy mãi mất thêm 50 ngàn đồng mới được cái chỗ quí báu này đây” Tàu
vừa chạy đã nghe tiếng bà ngáy đều. Trước khi tàu đến Huế hai giường dưới
còn trống nên chị Lan và Chị Vân dùng giường bên trái
- giường của Cương - làm chỗ ngồi nói chuyện với nhau. Anh sĩ
quan công an nằm nghiêng nơi giường mình góp chuyện với hai người. Cương
ra cửa sổ hành lang nhìn phong cảnh. 
Qua khỏi Phú Bài đường xe lửa xuôi nam
thẳng tắp. Chuyến tàu S7 phom phom phóng mình dưới bầu trời sáng điểm mây thấp,
bên phải là đồi núi, bên trái là đồng lúa xanh rì. Xem phong cảnh chán, Cương
ngồi ghé ở giường mình không tỏ  ý muốn nằm. Được thể, chị Lan và chị Vân tiếp tục ngồi nói chuyện với anh Vinh. Câu chuyện của 3 người khá tương đắc. Họ
kể cho nhau nghe công tác hiện tại. Chị Lan vừa xong khóa tu nghiệp giáo
sư  ở Hà Nội trở
về nhiệm sở. Chị sẽ xuống ga Diêu Trì đáp xe đò đi Kontum.
Chị là con một huyện ủy viên ở  Phú Yên thời chống Pháp. Chị theo cha mẹ tập kết ra Bắc năm 1 tuổi. Chị nói giọng Hà Nội pha Bình Định, âm điệu và nội dung còn tha thiết với quê hương
của bố mẹ. Chị Lan đẹp một cách gọn gàng. Chị Vân từ Hà Nội được phái vào Nha Trang tham dự thành phần giảng
huấn cho một khóa huấn luyện phóng viên quân đội ngắn ngày. Giọng Hà
Nội, trẻ, khuôn mặt xinh xắn, nước da trắng ngà, hơi đẫy người, tính tình cởi
mở. Chị nói biến cố giải phóng miền Nam năm 1975 không để lại
một ấn tượng gì sâu đậm nơi chị. Năm ấy chị mới 10
tuổi. Chị hài lòng với công việc hiện tại. Anh
Vinh ít nói chỉ tiếp chuyện với hai chị Lan và Vân và đặc
biệt lịch sự với chị Vân. Hai người trạc cùng tuổi.
Anh uống bia và mời chị Vân. Chị Vân
từ chối viện cớ hơi mệt. 
Tàu chạy nhanh đong đưa điểm nhịp khi bánh xe
chạm chỗ nối của đường sắt. Tôi nằm yên không ngủ được theo
dõi câu chuyện của 3 người. Câu chuyện cởi mở nhưng dè dặt và
tôi nghĩ nếu họ có gì không bằng lòng với hiện tại họ cũng không thổ lộ với nhau.
Tàu ngừng ở Lăng Cô để thêm một đầu máy trước khi lên đèo Hải
Vân. Trời mưa lất phất. Nhiều cô bé co ro trong
chiếc áo mưa không che kín thân chạy tới chạy lui rao mời khách mua cũ lang, cũ khoai mì luộc, bánh tráng, mía tiện thành thỏi nhỏ
bọc trong túi ni lông. Có cả mực khô và bia lon. Một số người tàn tật lê mình khó nhọc trên chiếc nạng gỗ đến xin
tiền bố thí của khách. Tiếng động khác lạ bên ngoài
làm bà Hồng thức giấc. Bà nhanh nhẹn leo xuống
giường, mua một túi mía, một chai nước ngọt, cho tiền những người tàn tật rồi
im lặng ngồi ké bên giường tôi uống nước. 
            Một người đàn ông
trung niên đi qua ngoài hành lang. Chị Lan chào thầy Mẫn. Nhận ra cô học trò cũ
xinh đẹp từng học với thầy tại trường đại học sư phạm Huế thầy cười thật tươi.
Chị Lan kể: Thầy Mẫn đỗ tiến sĩ văn chương
tại Trung quốc, dạy môn văn. Thầy hiền lắm. Lúc dạy lớp cao học, ai cũng được thầy cho điểm cao. Có người
chất vấn thầy sao giỏi dốt gì thầy cũng cho điểm cao, thầy cười trả lời rất
tếu: Đã học cao học rồi thì ai cũng đáng được điểm cao. Đang trầm ngâm bà Hồng chen vào câu chuyện: “Chuyện thầy bà của chị làm tôi
giật mình. Giáo dục là điều quan trọng nhất của một quốc gia.
Người thầy không làm tròn chức năng để di họa cho muôn người.
Thầy Mẫn của cô tốt thật nhưng lối giáo dục của thầy có hại
cho thế hệ tương lai. Nước mình làm sao khá lên được!”
Cương im lặng ngồi nghe. Tôi chờ đợi phản ứng của chị Lan, hay nếu không chị Lan sẽ là chị Vân hay anh Vinh. Nhưng
chị Lan chỉ hơi xoay người lại tỏ ý không muốn lý sự  với bà Hồng. Vân và Vinh im lặng. Vinh
tiếp tục nhắp bia, mời chị Vân một lần nữa mắt đăm
chiêu nhìn bên ngoài. 
Cương gợi chuyện với bà Hồng. Bà tâm sự: “Chị đi buôn. Khi tan hàng chị đã
có 6 con, con năm một, chồng chị đi học tập, trước khi
đi ảnh còn để cho chị một cái bầu. Năm 1976 chị sinh cháu út bà con ai cũng lo
cho tương lai của chị. Nhưng chị quyết phấn đấu nuôi con chờ chồng. Các tuyến đường
xe lửa là nơi sống của chị, chị mua hàng từ thành phố
này sang bán thành phố kia. Đàn con chị gởi cho một người chị coi sóc. Nói là
gởi nhưng thật ra đứa con lớn 10 tuổi coi đàn em nhỏ dưới mái nhà của người chị.”
Bà thủ thỉ với Cương: “Em ơi, khổ lắm, đang học đại học chị lấy chồng có biết buôn bán là
gì. Thế rồi vật lộn với đời sống, vật lộn với những cuộc đuổi bắt của công an trong thời kỳ xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa cấm buôn
bán rồi cũng quen dần. Một thằng con trai của chị cực quá chịu không nổi bỏ nhà
theo bạn bè vượt biên nay ở Seattle bên Hoa Kỳ. Còn
bầy con ở lại bây giờ đứa nào cũng đã lập gia đình và tạm ổn định. Chỉ tội
không có đứa nào được ăn học, thiếu thốn tiền bạc một
phần, nhưng chính yếu vì lý lịch.” Bà Hồng nói lúc này bà vẫn
còn đi buôn nhưng chỉ giao hàng sỉ. Hàng được đóng thùng có người đưa
lên tàu, đến nơi có người nhận lãnh, bà chỉ theo hàng để
thanh toán tiền nong. Chồng chị tù cải tạo 12 năm, đang chờ
phỏng vấn diện HO thì mắc bệnh qua đời. Thế là cả gia đình
chị kẹt lại.” 
Tỏ ý không quan tâm câu chuyện giữa bà Hồng và Cương, chị Lan, chị Vân và người sĩ quan công an nối lại câu chuyện với
nhau. Chị Vân kể chuyện một lần đi công tác xuống ga Đà Nẵng ban đêm chị thấy
những người phu khuân vác không nhà ngủ la liệt trên sân ga. Theo chị làm việc đâu
ngủ đó thật là giản tiện. Không bỏ lỡ cơ hội bà Hồng khiêu khích: “Giản tiện nhưng đau lòng. Một nước cũng như một nhà. Nếu bố mẹ không làm tròn bổn phận
con cái phải khổ. Dân còn không nhà không cửa cù bơ cù
bất sau bao nhiêu năm hòa bình thì ai có trách nhiệm?” Chị Vân đỡ lời: “Thì cũng phải có thì giờ cho
các cụ” (người
trong nước có thói quen gọi một cách vô thưởng vô phạt mấy ông già trong Bộ
chính trị bằng cụ.)  Bà Hồng tiếp: “Học cũng phải có căn bản. Một ông bác sĩ học 6 tháng có thể làm ruộng giỏi như một nông dân,
nhưng người nông dân học mãi cũng chẳng trở thành bác sĩ”. Toa giường ngủ
trở nên im phăng phắc chỉ còn nghe tiếng gió xào xạt ngoài thân tàu hòa với
tiếng bánh xe đập lạch cạch trên đường sắt. Chị Lan xoay người quay lưng lại bà Hồng giả vờ ngủ. Anh sĩ quan
công an mang một cuốn sách nhỏ ra đọc trong khi chị
Vân im lặng trầm ngâm. Để đánh tan không khí căng thẳng, Cương gợi chuyện với
chị Vân. Cương trạc tuổi chị Vân. Chị
hỏi về nước Mỹ, cách sống và không dấu diếm ước vọng phải chi có dịp đi Mỹ một
chuyến cho biết. Tôi thấy chị và Cương trao đổi địa chỉ e-mail với nhau.
Tàu đến ga Tam Kỳ anh sĩ quan công an xuống xe.
Chị Lan sắp xuống ga Diêu Trì. Chị nhờ Cương: “Đến ga chị nhờ em mang giúp
chị hai va-li ra cửa ga, chị còn hai xách tay nữa. Lúc nãy
thầy Mẫn hứa đến ga thầy giúp nhưng chị ngại làm phiền thầy.” Bà Hồng can thiệp: “Thôi chị ơi, tàu chỉ ngừng ở ga Diêu Trì mấy phút, lỡ trễ xe con người
ta thì sao. Cho phu vài ngàn đồng họ mang ra cho, làm gì mà
hà tiện quá vậy.”
Thấy bà Hồng có lý tôi qua ngăn tàu bên cạnh nhắc thầy Mẫn. Tàu ngừng, thầy Mẫn
sang lễ mễ xách hai chiếc va-li nặng trĩu của chị Lan
xuống tàu. Tôi chúc chị Lan trở về bình an và nói nhỏ
với thầy Mẫn: “Dạy
nữ sinh viên trẻ đẹp cũng phiền nhĩ?” Ở ga Diêu
Trì hai cô sinh viên khác lên tàu trám chỗ. Tàu chạy bà Hồng leo lên giường và chỉ một chốc đã nghe tiếng bà ngáy ngon
lành. Tôi chợp mắt được một lát thì  tàu tới Nha Trang. Đúng
nửa đêm ngày 27 tháng 3. Tàu trễ một giờ. 
TRỊNH CÔNG SƠN VĨNH BIỆT CUỘC ĐỜI
Tôi ở Nha Trang. Hôm nay là
ngày 1 tháng 4. Người Pháp gọi là “Poisson d'Avril”, người Mỹ gọi là “April Fool”, người Việt nói theo người Pháp gọi là “Cá tháng Tư”. Loan tin vịt gì cũng được,
ai tin ráng chịu. Hôm ấy mấy chuyện nho nhỏ đối với tôi rất
thật, không “fool” chút
nào cả. Bác Chuẩn, người bạn già của tôi 78 tuổi đạp xe đạp 10 cây số 6
giờ sáng đã có mặt ở bãi biển Nha Trang để cùng tắm với tôi. Chúng
tôi thân nhau, hiểu nhau và coi nhau như anh em. Phương Tâm từ Hà Nội
bay vào, vợ chồng Lưu và Diệu Trang từ  Sàigòn bay ra. Sáu giờ chiều ăn cơm ở
Biển Tiên nằm trên một con đường lớn mới mở chạy thẳng từ đường Duy Tân - nay đổi
là Trần Phú - dọc bờ biển Nha Trang qua cửa sông Nha Trang băng qua Bãi Dương, Đồng
Đế với vợ chồng Lưu Diệu - Trang, vợ chồng Lý, vợ chồng Duy, vợ chồng Châu và
Nhự độc thân tại chỗ. 
Mặt quốc nội và quốc tế hôm ấy có nhiều tin giật
gân. Quốc
nội, tại Hà Nội các Ủy viên Bộ chính trị đấm đá nhau ác liệt giành chức tổng bí
thư. Tại Sài Gòn nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn chết vì bệnh tiểu đường. Tin quốc tế, máy bay khu trục Trung quốc ép
và đụng máy bay trinh thám Mỹ ngoài khơi bờ biển Trung quốc. Phi công Tàu nhảy
dù xuống biển mất tích, máy bay Mỹ bể một đầu cánh đáp an
toàn đáp xuống Hải Nam với phi hành đoàn 24 người. Tất cả đều
là tin thật. Nhưng ở Việt Nam không ai quan tâm đến nội bộ đảng cộng sản
dù những ngày đầu tháng Tư cuộc tranh chấp gay cấn đến độ nơi làm việc của một
vài Ủy viên quan trọng Bộ Chính Trị đã được bố trí súng phòng không. Tin đồn Lê
Khả Phiêu nhất định bám chức Tổng bí thư mỗi đêm phải đổi
chỗ ngủ sợ phe chống đối áp lực bằng vũ lực. Dân cũng không
chú ý đến căng thẳng ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Trung quốc. 
Hình như đối với dân trong nước tin gì cũng là tin dõm đáng liệt
vào loại cá
tháng tư,  chỉ
có tin Trịnh Công Sơn qua đời là tin thật. Cả nước xôn xao,
nhất là giới trẻ. Trong quán ăn, rạp hát, quán cóc bên hè phố, nơi bạn
bè gặp gỡ nhau, trong công sở nơi nào cũng nói đến Trịnh Công Sơn. Tin chung
quanh cái chết của Trịnh Công Sơn là tin hàng đầu của báo chí. Đường Phạm Ngọc
Thạch, quận 3 nơi quàn linh cửu của Trịnh Công Sơn xe cộ không thể lưu thông,
chật cứng bởi hàng ngàn xe hai bánh của giới trẻ. Giới trẻ ngưỡng
mộ Trịnh Công Sơn một cách tự nhiên. Họ yêu nhạc của
anh, yêu lời của những bài hát thách thức mọi nguyên tắc văn phạm như xuất ra
từ những giấc mơ miên viễn của người nhạc sĩ đa tài lừng lững thấm vào tâm thức
người nghe. Nguyễn Minh Triết, thành ủy Sài gòn, người đảng viên lớn
nhất ở miền Nam, nhạy cảm với phản ứng của giới trẻ đã trân trọng đến chia buồn
với thân nhân và phúng điếu trước linh cửu Trịnh Công Sơn. Ông Triết cẩn thận
cho chụp hình ông - áo sơ mi trắng, cà vạt đen - thân mật ngồi bên cạnh hai cô
em gái của Trịnh Công Sơn để đăng báo. Hai ông Võ Văn Kiệt và Nguyễn Văn Linh
một thời từng giữ các chức vụ thành ủy Sài Gòn, thủ tướng và Tổng bí thư sợ bị
dân chúng chê “quê
một cục”
cũng gởi quà phúng điếu với tư cách “cá nhân”. Dư luận Sài gòn mổ xẻ từng
chữ cảm tưởng của ca sĩ Khánh Ly, người Trịnh Công Sơn ghi trong một thủ bút
của anh năm 1995 là “một người bạn của định mệnh, vĩnh viễn thương yêu nhau”. Khánh Ly nói: “Cách đây hai năm tôi gặp ông
lần cuối ... tôi cũng linh cảm điều đó ... Thật ra ông Trịnh Công Sơn không
phải của riêng ai cả, ông là của tất cả mọi người ... Việc ông ở lại và nằm
xuống trên quê hương là điều đúng bởi vì ông Sơn là người yêu quê hương và dân
tộc. Từ ông tôi thành danh và quan trọng hơn cả là tôi thành
nhân. Tôi đã sống 
cùng tên tuổi ông gần 40 năm với những lời ông dặn. Phải luôn luôn sống giữa đời với một tấm lòng và sống với người với
sự tử tế. Ông Trịnh Công Sơn là một nửa đời sống của
tôi.”
Tình cảm Khánh Ly dành cho Trịnh Công Sơn thật tha thiết đậm đà, nhưng sao chữ  “Ông” ơ hờ lạc lõng thế? Khánh Ly cần một khoảng cách tế nhị với Trịnh Công Sơn để làm gì?
Đa số người lớp tuổi 60 không thích Trịnh Công Sơn
như giới trẻ 30. Họ trách Trịnh Công Sơn đã sáng tác những bài ca ru ngủ trong thời kỳ chiến tranh, trách anh phản chiến, trách anh say sưa. Chỉ một
phần nhỏ thông cảm sự trăn trở của Trịnh Công Sơn trước
thân phận một nước nhược tiểu trần mình giữa hai lằn đạn. Anh
đắm chìm vào những giấc mơ kỳ bí bằng rượu mạnh để toát ra những lời ca buốc
lòng người. Quá trình quan hệ giữa Trịnh Công Sơn với chính quyền từ năm
1975 cho đến ngày anh nằm xuống là một quá trình đấu tranh để giữ tư cách của
người nghệ sĩ.  Sau khi thành lập chính
quyền mới đảng cộng sản ao ước gì hơn là Trịnh Công Sơn sáng tác cho một bản
nhạc ca ngợi Hồ Chí Minh, ca ngợi đảng. Bài hát chờ đợi không
ra đời, anh bị trù yếm. Người ta đưa anh về quê ở Huế
giao cho những chức vụ thật kêu. Người ta cho anh đi nước
ngoài thầm mong anh ở lại luôn cho rảnh mắt anh vẫn lù lù trở về. Bằng
sự can đảm hiếm có anh nắm được quả tim của quần chúng
buộc người cầm quyền không thể hờ hững trước cái chết của anh để vớt vát rằng
Trịnh Công Sơn trước sau vẫn là phe ta. Anh không
là của ai cả.
TIẾNG VIỆT CÒN, NƯỚC VIỆT CÒN
Nhà nước cộng sản chủ trương làm trong sáng tiếng Việt. Trong thời kỳ còn chiến tranh và nhất là sau khi chiến thắng họ đẩy
chủ trương trên đến độ lố bịch. Nhà hộ sinh đổi lại là xưỡng đẻ, nam học
sinh, nữ học sinh gọi là học trò trai, học trò gái, cầu tiêu gọi là nhà ỉa...
Vì chướng tai nên các danh từ năng nổ trên biến mất
với thời gian. Một hiện tượng ngược lại xuất hiện. Nhiều tiếng Việt thông dụng được thay bằng tiếng Hán Việt lù mù hơn.
Dàn bài dạy học gọi là giáo án, khởi công gọi là thi công ... Lúc ngược lúc
xuôi tùy hứng và tùy tiện không theo một nguyên tắc
nào.
Chưa hết, chính sách (hoặc không chính sách) của Nha Du  lịch Quốc gia mới
là lạ. Ngoài Hà Nội gợi hiếu kỳ, Huế là nơi thu hút
nhiều du khách sau khi kinh thành Huế với lăng tẩm và hoàng thành được Liên
hiệp quốc công nhận là bảo vật của thế giới. Trong các lăng
tẩm lăng vua Tự Đức đẹp nhất. Lăng vua Tự Đức gọi là Khiêm Lăng nằm vắt trên
một ngọn đồi thông hùng vĩ ở Vạn Niên bên hữu ngạn
sông Hương. 
Thăm Huế lần này tôi trở lại Khiêm Lăng, nơi mang
nhiều kỷ niệm của tôi thời thơ ấu. Bước qua cổng chính, một con đường lát gạch tảng hai bên đường
trồng hoa sứ  nở
trắng xóa, cánh trắng, lòng vàng tỏa ra mùi thơm mát dịu dẫn vào lăng. Nhà mát, nơi vua Tự Đức câu cá thuở sinh tiền dựng trên một hồ sen
bên phải. Giữa hồ là một núi non bộ. Bên trái
chót vót trên mấy chục bậc thang là mộ vua Tự Đức. Leo hết các bậc thang tôi
ngẫu nhiên đứng trước tấm bia đá lớn chằng chịt chữ
Hán được dựng trước mộ vua Tự Đức cùng với một du khách người Canada. Du khách hỏi tôi có phải là người Việt? Tôi
trả lời khẳng định. Ông ta hỏi tiếp: “Có hai cách viết tiếng Việt
phải không?” Tôi
chưa kịp hiểu câu hỏi thì du khách chỉ vào tấm bia giải thích: “Tôi biết người Việt dùng mẫu tự  a, b, c. như chúng
tôi, còn chữ  kia giống chữ của người Tàu
là lối viết khác?” Vỡ lẽ, tôi bỗng thấy ngượng vì nhìn tấm bia
chằng chịt chữ Tàu tôi cũng không hiều một chữ nào. Tôi trả lời: “Thưa không, chúng tôi chỉ có
một lối chữ viết, chữ trên tấm mộ bia kia là chữ Tàu.” Vẫn chưa hết ngạc nhiên du
khách hỏi: “Thế
sao không có bản dịch ra chữ Việt cho người Việt và một bản tiếng Anh cho người
nước ngoài.” Tôi không biết phải trả lời sao với du khách. Chẳng lẽ nói
Nha Du Lịch Quốc Gia bận chưa làm, hay Nha Du Lịch không quan tâm, Nha Du Lịch ....
Sự tò mò của người du khách làm tôi liên tưởng đến những tấm bia
chữ Hán khác khắc trên đá cẩm thạch, những tấm hoành phi rực rỡ chữ vàng viết
trên nền đỏ gạch tôi thấy ở Văn Miếu, Phủ Tây Hồ,  đền Quán Thánh,  chùa Trấn Quốc ở Hà Nội, ở cửa Ngọ Môn, Phu Văn
Lâu và trong hoàng thành Huế, và vô số những nơi khác. Đứng
trước chúng như đứng trước một rừng cây. Tôi  bỗng ước ao được hiểu ý nghĩa của
những dòng chữ trên những tấm bia, những bức hoành phi chữ Hán. Tôi sẽ biết
nhiều hơn các bài sử 
khô khan đã học. Tôi sẽ gần gũi hơn với lịch sử  nước nhà và biết đâu tôi sẽ tự hào hơn
về quê hương mình. Tôi tự hỏi tại sao một vấn đề đơn giản như vậy mà Nha Du
Lịch có từ ngày chính phủ Bảo Đại, qua chính phủ ông Diệm, ông Thiệu, ông Hồ
với 26 năm hòa bình và ngành du lịch là ngành được Nhà nước khuyến khích mà
không ai làm. Tự vấn mình sao những rừng chữ Hán đó thấy từ
thuở còn để chỏm mà không thắc mắc, cho đến khi bị một người ngoại quốc chất
vấn? Có lẽ ảnh hưởng của Khổng học thấm vào xương tủy mà chúng ta không
hay. Chúng ta vọng ngoại, chúng ta coi thường chính chúng ta.
Chúng ta là những người thiếu văn hóa. Tôi bỗng tìm ra nguyên nhân tại sao giải
đất Việt Nam hình chữ  S được thiên nhiên
ưu đãi như vậy, con người Việt Nam thông minh kiên cường như vậy, mà bước vào
thế kỷ 21 đất nước vẫn điêu linh, dân vẫn khổ.
HUYỀN THOẠI CỦ CHI
“Gái Củ Chi, chỉ cu anh, hỏi:
củ chi?”
Đó là câu đối tôi nghe người tài xế xe
taxi bảy chỗ ngồi chở chúng tôi đi thăm địa đạo Củ Chi đố người phụ xe. Thấy người
phụ xe chưa hiểu, anh tài xế nói: mầy nói lái “Củ Chi” thành “chỉ cu” thì hiểu.
Hôm 10 tháng 4 tôi cùng vợ chồng một người bạn thân và 2 cô cháu
gái đi viếng địa đạo Củ Chi. Quận Củ Chi thuộc tỉnh Bình Dương là một quận trù
phú gồm đồng bằng và rừng cây thấp cách Sài Gòn khoảng 30 cây số về hướng Tây
Bắc. Trong vùng rừng cây thấp có một địa đạo đào sâu dưới lòng đất gồm 3 tầng
hầm cao thấp khác nhau để cho các du kích ẩn náu, nghỉ ngơi và đánh phá các đơn
vị Mỹ đóng trong vùng Bắc Sài Gòn. Trong thời kỳ chiến tranh
các bản tin quân sự thỉnh thoảng thông tin các cuộc đụng độ tại Củ Chi giữa
quân đội Mỹ và du kích Bình Dương. 
            Sau chiến tranh địa
đạo Củ Chi được miêu tả như là một hệ thống địa đạo dài mấy trăm cây số  đào ngay dưới các đơn
vị đóng quân của Hoa Kỳ và quân đội Mỹ đã dùng mọi vũ khí có trong tay vẫn
không hủy diệt được địa đạo. Nhân viên hướng dẫn nói với du khách ngoại quốc
rằng trong thời kỳ chiến tranh các du kích dưới các địa đạo thường xuất hiện từ  các miệng hầm nằm
ngay giữa căn cứ  quần thảo với quân đội
Mỹ rồi chui biệt tăm vào hệ thống hầm hằng chịt ở dưới.  Qua miêu tả chính thức của
chính quyền và qua những lời truyền miệng của các du khách nước ngoài dễ tính,
Củ Chi biến thành một huyền thoại, một địa danh du lịch hấp dẫn.  
            Chúng tôi đến nơi
vào một buổi sáng nóng và ẩm. Địa đạo nằm bên trái tỉnh lộ Bình Dương, bên kia đường
là cơ sở tiếp khách, quầy bán vé, phòng chiếu phim tài liệu, phòng triển lãm và
quán giải khát, quán ăn. Ở đây ngoại trừ các cô ngồi ở quầy vé, các nhân viên
phục dịch khác đều ăn mặc như du kích. Chúng tôi đến nơi
vừa hết giờ xem chiếu phim nên chúng tôi theo người du
kích hướng dẫn viên đi xem địa dạo trước. Chúng tôi được hướng dẫn qua các đường
hầm gồm cửa vào và cửa ra gần đó và được giới thiệu là một phần của một hệ
thống địa đạo dài 250 cây số, qua phòng trưng bày hầm chông và mìn bẩy, các
phòng họp, phòng nghỉ ngơi dưới mặt đất, được cho xem những quả bom không nổ đã
được rút ngòi và một hố bom B52 đường kính rộng chừng 10 mét sâu chừng 8 mét cỏ
đã phủ kín. Người hướng dẫn cho biết người Mỹ đã thả hàng trăm trái bom như vậy
nhưng sau chiến tranh đã được lấp bằng. Nhìn quanh tôi không
thấy dấu vết của tàn phá như vậy. Trước một miệng hầm
một chị du kích hướng dẫn đang thuyết phục một phụ nữ Nhật Bản không nên xuống
hầm vì thiếu
không khí, chị có thể bất tỉnh. Người phụ nữ Nhật Bản, có
lẽ là một phóng viên đi tìm sự thật, nhất định xuống hầm. Tôi chờ chị
xuống và thấy chị tươi tỉnh ra khỏi miệng hầm đầu kia.
Trở về phòng chiếu phim chúng tôi được xem một cuốn phim đen trắng, nội dung đơn
sơ,  phần đầu
tuyên truyền công cuộc chống Mỹ cứu nước, phần còn lại nói về các cuộc bỏ bom của không quân Hoa kỳ và các
cuộc tấn công bằng thiết giáp và cuộc đánh trả của du kích Bình Dương. Không
thấy cuốn phim nói gì nhiều về địa đạo Củ Chi: công trình xây cất, chiến công
... như du khách chờ đợi. Cũng may bên trái màn ảnh là một họa đồ địa đạo Củ
Chi có 3 tầng được vẻ một cách đơn sơ. Thấy phim không hấp dẫn tôi bước lại gần
quan sát họa đồ.
Sau cuộc tham quan tôi có cảm tưởng Củ Chi là một huyền thoại hơn
là sự thật, hay sự 
thật chỉ là một phần của huyền thoại. Huyền thoại có thể đã được
xây dựng bởi các phóng viên báo chí Mỹ không ủng hộ sự can thiệp của Hoa kỳ và được
khai thác bởi người chiến thắng. Trong thời kỳ chiến tranh họ
ngồi ở Sài Gòn góp nhặt tin tức qua các bản tin quân sự, thêm thắt và phóng đại
các chiến công của đối phương. Những chi tiết như hệ thống địa đạo dài
250 cây số, có nhà máy điện, bệnh viện, có nơi nghỉ ngơi cho cả tiểu đoàn v.v...
là những chi tiết cần nhiều bằng chứng hơn để chứng tỏ
là có thật. Về phương diện quân sự một hệ thống địa đạo như vậy cũng có thể được
phá hủy nếu quân đội Hoa kỳ tận dụng các vũ khí cổ điển có trong tay.
            Sau chiến tranh
nhiều chiến binh Hoa Kỳ đã đến viếng địa dạo Củ Chi. Bây giờ chỉ còn du khách
trẻ đa số từ  Âu
châu, 
Tôi hỏi chú du kích hướng dẫn.
- Hồi còn chiến tranh em có biết gì về địa đạo Củ Chi không?
- Không. Em còn nhỏ, nhưng cha em từng chiến đấu
ở đây.
- Chắc cha em kể lại nhiều chiến công li kì của ổng tại đây? 
- Cũng ít thôi. Cha em đã hơn 50 tuổi, vốn ít
nói. Hơn nữa ông còn bận chạy máy đuôi tôm chở khách
nuôi mấy đứa em của em.
LY NƯỚC  LƯNG
DẦN:
Trên đường lên Tân Sơn Nhất trở về Hoa Kỳ tôi thấy một khẩu hiệu
lớn viết trên tường một cao ốc ở quận 1: Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa để làm cho dân giàu nước
mạnh, tạo lập công bình và xây dựng nếp sống văn minh. Từ cuối
thập niên 1980 áp dụng kinh tế thị trường thì sinh hoạt kinh tế trở nên dễ chịu
đối với giới buôn thúng bán mẹt, nhưng dân chưa giàu. Giàu chăng là cán
bộ, đảng viên có quyền có thế và một số nhỏ không ở trong đảng nhưng biết mánh
mung trong hệ thống thị trường lỏng lẻo. Đa số dân, nhất là nhân dân sống ở
thôn quê làm ăn khó khăn và rất nghèo. Nước chưa mạnh. Sự kính nể của các nước
láng giềng càng lúc càng giảm sút. Trung quốc áp lực
lấn đất biên giới trên đất liền và các hải đảo. Không  có sự công bình trong sinh hoạt chính
trị độc đảng và do đó không có sự công bình trong xã hội. Nếp
sống văn minh? Nếu xem văn minh là một ít phương tiện vật chất như
truyền hình, máy lạnh, bếp ga, điện thoại cầm tay ...
thì Việt 
Tôi liên tưởng đến thành phố Hồ Chí Minh, nơi các nhà mặt tiền rộng
rãi thênh thang đều là nhà của cán bộ lớn của nhà nước, những người chẳng bao
giờ biết đến địa đạo Củ Chi. 
Ly nứớc Việt 
 
| Trần Bình Nam | http://www.vnet.org/tbn |