McNamara, chiến tranh Việt Nam và nước Mỹ
Trần Bình Nam
          
Robert S. McNamara, bộ trưởng quốc
phòng Hoa Kỳ dưới hai chính quyền John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson vừa qua
đời hôm Thứ Hai 6/7/2009 tại nhà riêng ở thủ đô Washington. Ông McNamara sinh năm
1916 tại San Francisco, thọ 93 tuổi. Ông là một nhân vật đặc biệt ở chỗ trước
khi được tổng thống Kenndy mời làm bộ trưởng quốc phòng ông chưa có một chút
kinh nghiệm gì về quân sự (ngoài lon đại úy giả định sau khi Hoa Kỳ tuyên chiến
với Nhật Bản năm 1941do biệt tài về điều hành và thống kê). Ông tốt nghiệp tại
UC Berkeley và trường hành chánh tại Harvard.
Năm 1945 hết chiến tranh ông trở về
đời sống dân sự và làm việc cho hãng Ford chuyên sản xuất xe hơi. Năm 1960 ông
được công ty Ford bổ nhiệm làm chủ tịch hãng Ford, người chủ tịch đầu tiên
không thuộc gia đình họ nhà Ford. Mấy tháng sau tổng thống đắc cử Kennedy mời
ông làm bộ trưởng quốc phòng.
Tổng thống Kennedy tin rằng điều hành
thành công một công ty lớn như công ty Ford ông McNamara sẽ điều hành nổi bộ
máy quân sự Hoa Kỳ khổng lồ của Hoa Kỳ. Lúc này tổng thống Kennedy chưa có
chính sách dứt khoát đối với cuộc chiến Việt Nam là nên tiến hay thối, và trong
thâm tâm ông hy vọng ông McNamara với tài điều hành giỏi từng chứng tỏ ở cương
vị chủ tịch hãng Ford sẽ có đối sách đúng đối với cuộc chiến Việt Nam. 
Nếu tổng thống Kennedy không bị ám sát
chết năm 1963 (và cái chết của tổng thống Kenndy có liên quan gì đến cuộc chiến
Việt Nam không vẫn là một nghi vấn có thể chẳng bao giờ có câu trả dứt khoát) có
thể ông sẽ xuống thang cuộc chiến vào nhiệm kỳ 2 (1964-1968) và cũng rất có thể
ông McNamara sẽ là người làm công việc này một cách êm xuôi. Nhưng lịch sử
chuyển qua một hướng khác. Tổng thống Kennedy chết, Phó tổng thống Johnson lên
thay và cuộc chiến Việt Nam leo thang trong năm 1964 và trong suốt nhiệm kỳ
1964-1968 của ông Johnson. Và Robert McNamara đã là người thực hiện chính sách
leo thang bằng con số và bằng các đồ thị từ văn phòng bộ trưởng ở Ngũ giác đài.
Là một người Mỹ ông tin rằng bộ máy
kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ là vô địch, và vì Hoa Kỳ chưa hề bại trận trong
suốt lịch sử từ ngày lập quốc, ông McNamara tin rằng nước Mỹ sẽ thắng cuộc
chiến Việt Nam và sẽ thắng một cách gọn nhẹ với sự điều hành một cách khoa học
của ông.  Ông tin như vậy và với sự hậu
thuẫn của tập đoàn tư bản Hoa Kỳ ông đã thuyết phục dễ dàng tổng thống Johnson
và quốc  hội. Nhưng chiến tranh không
phải chỉ thuần là khoa học và sự thiếu kinh nghiệm chiến lược của ông McNama đã
làm cho Hoa Kỳ sa lầy. Từ con số 400 quân nhân thuộc lực lượng đặc biệt ông
McNamara phái qua Việt Nam sau khi tổng thống Kennedy nhậm chức, đến tháng
11/1963 khi ông Kennedy bị ám sát quân số Hoa Kỳ tại Việt Nam lên 17.000 người
và vào năm 1965 khi Hoa Kỳ chuẩn bị oanh tạc liên tục miền Bắc Việt Nam, Hoa Kỳ
có 175.000 quân tại Việt Nam. Tất cả đều do tài đạo diễn của ông McNamara. 
Cũng trong khoảng thời gian 1965 này
ông McNamara bắt đầu nghi ngờ về chiến thắng tại Việt Nam và vào mùa thu năm
1966 sự nghi ngờ của ông không che dấu được ai trong giới thân cận. Tuy nhiên
bên ngoài ông McNamara vẫn tỏ ra là con diều hâu của chiến tranh và thiết lập
các kế hoạch tăng quân và tăng cường độ các cuộc oanh tạc miền Bắc Việt Nam.
Muốn rút bài học cho Hoa Kỳ và cho
chính bản thân, năm 1967 ông McNamara bí mật ra lệnh điều tra nguyên ủy của
cuộc chiến tranh Việt Nam mà không thông báo cho tổng thống Johnson. Kết quả là
tài liệu mật “Pentagon Papers” mà ông Daniel Ellsburg, một thành phần trong ban
nghiên cứu đã cung cấp (một phần) cho tờ New York Times năm 1971 tạo chấn động
dư luận Hoa Kỳ. Giữa năm 1967 tổng thống Johnson biết việc sưu tầm này ông nghi
ngờ ông McNamara thu thập tài liệu để giúp ông Robert Kennedy ra tranh sự bổ
nhiệm của đảng Dân Chủ với ông trong cuộc bầu cử tổng thống nhiệm kỳ 1968-1972,
đo đó quan hệ giũa tổng thống  Johnson và
ông McNamara trở nên nguội lạnh. 
Năm 1968 sau cuộc tấn công Mậu Thân,
tướng Westmoreland xin thêm quân, ông McNamara là người khuyến cáo không tăng
và quan hệ đối với tổng thống Johnson trở nên căng thẳng hơn. Những ngày huy
hoàng của McNamara chấm dứt.
Cuối tháng 2/1968 ông McNamara từ chức
bộ trưởng quốc phòng (trên thực tế bị tổng thống Johnson cách chức) và được bổ
nhiệm làm Chủ tịch Ngân Hàng Thế giới (World Bank). Một tháng sau, tổng thống
Johnson tuyên bố không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 1968-72 và đề nghị mở
cuộc thương  thuyết với Hà Nội để chấm
dứt chiến tranh Việt Nam. 
Lúc này Hoa Kỳ có hơn nửa triệu quân
tại Việt Nam và đã có 30.000 quân nhân tử trận. Cuộc chiến McNamara (McNamara’s war, theo cách mô tả của
Thượng nghị sĩ Wayne Morse, một Thượng nghĩ sĩ chống chiến tranh Việt Nam thuộc
đảng Dân chủ, bang Oregon) xuống thang nhưng từ đó cho đến khi Hoa Kỳ ký được
bản Hiệp ước Paris năm 1973 Hoa Kỳ còn tổn thất thêm 28,000 binh sĩ nâng tổng
số tổn thất nhân mạng binh sĩ Hoa Kỳ lên 58.000 người.
Chiến tranh Việt Nam với tổn thất to
lớn về nhân mạng và để lại hội chứng bại trận (Vietnam syndrome) trong tâm lý
quốc gia là một dấu ấn lớn đối với ông McNamara. Tuy nhiên mãi gần 30 năm sau
ông mới công khai nói ra cái nhìn của ông trong cuốn In Retrospect: The Tragedy and
Lessons of Vienam ông viết và
phát hành năm 1995, qua đó ông nói rằng sai lầm của cuộc chiến do hoàn cảnh
khách quan của tình hình thế giới và sự phức tạp của chiến tranh chứ không phải
là sai lầm của cá nhân ông. Cuốn sách đã gây ra nhiều tranh luận tại Hoa Kỳ.
Giới quân nhân giải ngũ và thân nhân các tử sĩ bỏ mình tại Việt Nam cho ông
McNamara phản bội và chất vấn ông tại sao trong thâm tâm ông biết việc Hoa Kỳ
tham chiến tại Việt Nam là một sai lầm từ năm 1965 ông vẫn công khai thúc đẩy
tổng thống Johnson tiếp tục gởi quân sang Việt Nam và nướng thêm hàng chục ngàn
thanh niên Mỹ nữa, chưa nói thêm một triệu người Việt Nam bỏ mình vì cuộc
chiến.
Cuốn sách In Retrospect: The Tragedy and
Lessons of Vienam của ông McNamara phát hành tháng 4 năm 1995 gồm 11
chương không thuyết phục được ai nếu không nói mang thêm nghi ngờ đối với tư
cách và lòng yêu nước của ông  McNamara.
Trong nỗ lực thanh minh thêm lập trường kiên định, năm 2003 ông  McNamara cho nhà đạo diễn Errol Morris thực
hiện một cuốn phim bằng cách phỏng vấn ông nhan đề: “the Fog of War” nhưng vẫn
cung cách không nhận sai lầm của chính mình mà đổ lỗi cho hoàn cảnh. Vì vậy ông
vẫn không chinh phục được lòng tin của người Mỹ.
Bây giờ ông nằm xuống, nhưng vết hằn
ông ấn lên nước Mỹ vẫn chưa nhòa. Nói đến ông người ta sẽ nhớ đến nhận xét của
nhà văn David Halberstam, tác giả cuốn sách “The Best and the Brightest” (những khuôn mặt thông minh và sáng
giá) rằng: “Ông McNamara trung thành với người lãnh đạo ông chứ không trung
thành với sự thật. Ông nói láo và khuyến khích những phụ tá của ông nói láo.
Ông nói láo với Kennedy, ông nói láo với Johnson, và chỉ khi sự thất bại hiện
ra rành rành trước mắt ông mới thấy lúng lúng không dám nói láo nữa” (nguyên
văn: McNamara’s loyal was to his bosses and not the truth. He lied to them. He
had people under him lying. He did it with Kennedy and he did it with Johnson
and it was only when he was impaled with the failure of the war that he didn’t
know what to do.)
Và nói như John Hurley, một sĩ quan
từng chiến đấu tại Việt Nam và sau này trở thành một phụ tá thân cận của ứng cử
viên tổng thống John F. Kerry năm 2004 rằng: “Ông McNamara không hiểu chiến
tranh là gì và cũng chẳng hiểu cái giá sinh mạng của chiến tranh. Đối với ông
ấy Việt Nam chỉ là một con số khô khan trên máy tính. (nguyên văn: He never
understand, never seemed to care about the humain cost of the war…. To him,
Vietnam was just a policy issue, sterile numbers to be managed.) 
Robert McNamara qua đời để lại người
vợ thứ hai, bà Diana Masieri Byfield và ba người con với vợ trước, bà Margaret
qua đời năm 1981 gồm: Craig of Winters, Margaret Pastor và Kathleen McNamara.
Trần Bình Nam
July 8, 2009
| Trần Bình  | http://www.tranbinhnam.com |