Một chính quyền bất xứng
Trần Bình Nam
Thời gian gần đây có ba sự việc
đáng chú ý về chính quyền tại Việt Nam.
Vụ Trung quốc cưỡng chiếm Trường Sa bằng nghị quyết
sát nhập rơi vào quên lãng. Và chính quyền Việt Nam đã không có một hành động nào
về mặt quốc tế để chuẩn bị một cái thế cho Việt Nam bảo vệ quần đảo Trường Sa
và giành lại quần đảo Hoàng Sa đã mất. Ngoài những lời tuyên bố “bạc nhược” có
tính hình thức chính quyền Việt Nam đã không đưa nội vụ ra Liên hiệp quốc với
những bằng chứng rằng Việt Nam có chủ quyền không thể chối cãi trên hai quần
đảo Hoàng Trường Sa để nếu sau này khi Trung quốc dùng vũ lực lấn chiếm các cụm
đảo Việt Nam đang trú đóng tại Trường Sa thì Việt Nam đã có sẵn một “hồ sơ” để
yêu cầu quốc tế can thiệp.
Nột vụ rơi vài im lặng, một sự im lặng có lợi cho
Trung quốc, vì đối với quốc tế Trung quốc có nghị quyết ngày 2/12/2007 thành
lập huyện Tam Sa, trong khi Việt Nam không có một bằng chứng quốc tế nào trên
giấy tờ.
Lập trường của Hà Nội được phổ biến bán chính thức
qua một cuộc phỏng vấn của ông Sỹ Hoàng,
một cựu đảng viên cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam ở hải ngoại (không ai biết
tên thật và ông ta đang làm gì tại Canada cho chính quyền Việt Nam) phỏng vấn
nguyên ủy viên Bộ chính trị Phạm Thế Duyệt, cựu chủ tịch Mặt trận Tổ quốc qua
một cuộc hội thoại Palltalk trong tháng 1, 2008 (xem toàn bản văn của cuộc
phỏng vấn trên mạng Đối Thoại www.doi-thoai.com
ngày 21/1/2008) người ta lờ mờ thấy rằng hình như trong vụ này có một sự thông
đồng giữa Trung quốc và Việt Nam để Trung quốc ra nghị quyết chủ quyền về Hoàng
Sa Trường Sa để chận đứng các dự tính của Hoa Kỳ về quần đảo Trường Sa (1).
Giả thuyết này có cơ sở nếu để ý rằng nghị quyết
thành lập thành phố Tam Sa cấp huyện trực thuộc tỉnh Hải Nam của Trung quốc
chưa bao giờ phổ biến chính thức (2) và chính Hà Nội đã tiết lộ sự
hiện hữu của nghị quyết này để phản đối. Và trong khi phong trào sinh viên và
nhân dân trong cũng như ngoài nước bùng lên phản đối Trung quốc thì chính quyền
tỉnh Hải Nam thông cáo rằng họ không nhận được lệnh gì từ trung ương (Bắc Kinh)
về việc thành lập thành phố mới (3). Hà Nội cũng luôn luôn tuyên bố
sự hợp tác giữa Việt Nam và Trung quốc về mọi lãnh vực (kể cả lĩnh vực lãnh
thổ?) đều được tính toán trên tầm chiến lược. Người ta tự hỏi tầm chiến lược
này là tầm chiến lược nào để Trung quốc công khai bằng văn bản sát nhập đất đai
của đất nước mình mà không mạnh mẽ phản kháng.
Nếu giả thuyết này đúng thì Việt Nam đã mắc mưu của
Trung quốc, vì lộng giả thành chân Trung quốc đã nghiễm nhiên là chủ nhân của
quần đảo Trường Sa. Di chúc căn dặn của vua Trần Nhân Tôn 8 thế kỷ trước đang
biến thành sự thật: "Các người
chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho
mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa
Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra nơi biên ải …”
Lịch
sử cũng như sự việc trước mắt cho thấy cách hành xử của chính quyền Việt Nam
trong vụ Hoàng Sa Trường Sa rằng hoặc chính quyền Việt Nam quá ngây thơ hoặc đã
bị những phần tử thân Trung quốc len lỏi vào làm nội ứng để bán nước. Nếu một
ngày nào đó nhân một cơ hội lịch sử Trung quốc chiếm Việt Nam đặt một bộ máy
cai trị giống như bộ máy họ đang đặt tại Tây Tạng trong 58 năm qua thì Trung
quốc cũng lập luận rằng Việt Nam vốn thống thuộc Trung quốc như bộ máy tuyên
truyền của Trung quốc hôm nay đang ra rả mỗi lần nhân dân Tây Tạng đứng lên đòi
độc lập .
Thứ
hai là việc lo cho dân. Chương trình xuất khẩu lao động nói là để xóa đói giảm nghèo
đã đưa bao nhiêu thanh thiếu nữ Việt Nam ra nước ngoài hoặc theo chương trình
xuất khẩu lao động hoặc làm cô dâu xứ người, nhiều nhất là Mã Lai Á, Đại Hàn và
Đài Loan, và một số nước ở Trung đông.
Là
công dân Việt Nam ở nước ngoài đáng lẽ các thanh thiếu niên này phải được các
tòa đại sứ Việt Nam tại các nước liên hệ theo dõi, săn sóc và bảo vệ khi cần
thiết. Và nếu có sự việc gì xẩy đến cho họ chính quyền Việt Nam phải là người
đầu tiên quan tâm can thiệp và an ủi giúp đỡ. Nhưng hình như các tòa đại sứ
Việt Nam không biết có sự hiện diện của họ. Khi đến nước người họ bị ức hiếp,
bị bạc đãi như những “tân nô lệ”, chính quyền Việt Nam không hề ngó ngàng tới
xem như không phải việc của mình. Cho đến khi các cơ sở truyền thông lên tiếng
và các hội thiện nguyện của người Việt ở nước ngoài như Ủy ban Cứu Người Vượt
Biển của ông tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng (4), Liên Minh Bài Trừ Nô Lệ Mới Tại Á châu (Coalition to
Abolish a Modern-day Slavery in Asia - CAMSA) (5) và các đài phát
thanh Việt Ngữ như đài BBC, VOA, và nhất là RFA loan tin thì bộ Ngoại giao và
bộ Lao động Thương binh Xã hội Việt Nam mới bắt đầu quan tâm .
Năm
2006 khi quân đội Do Thái dội bom Lebanon, chính quyền Việt Nam có giúp đỡ hồi
hương những người Việt làm lao động ở đó, nhưng chỉ làm sau khi các đài Việt
ngữ quốc tế lên tiếng thăm hỏi phỏng vấn. Mới đây, gần hai trăm phụ nữ làm việc
tại Jordan cho một hãng may của người Đài Loan bị chủ ép lương và không tôn
trọng khế ước đã đình công phản đối và bị chủ nhân gọi cảnh sát đến đàn áp đánh
đập có thương tích, ông Nguyễn Đình Thắng với tư cách thành viên của Liên Minh Bài Trừ Nô Lệ Mới Tại Á châu lên tiếng kêu cứu, tòa đại sứ Việt Nam tại
Ai Cập theo lệnh bộ Ngoại giao Việt Nam mới cử một nhân viên ngoại giao (ông
Trần Việt Tú) đến Jordan can thiệp.
Tại
Mã Lai Á, có ít nhất 120.000 công nhân nam nữ Việt Nam đang lao động. Tin tức
ghi nhận trong những năm gần đây số người chết do tai nạn lao động và với những
lý do không rõ ràng khác lên đến hằng trăm người, nhưng tòa đại sứ Việt Nam tại
Mã Lai Á và Bộ ngoại giao Việt Nam hình như không biết có việc đó cho đến khi
báo chí và các hãng thông tấn nước ngoài qua sự báo động của ông Nguyễn Đình
Thắng lên tiếng mới bắt đầu mở cuộc điều tra.
Trường
hợp đáng thương tâm nhất là những thiếu nữ lấy chồng người Đài Loan và Nam Hàn.
Một số bị nhà chồng bạc đãi, có khi bị cả họ nhà chồng hiếp, đánh đập xem như
họ được mua làm nô lệ tình dục, thậm chí có trường hợp bị giết chết. Tháng 6
năm 2007 cô Huỳnh Mai một thiếu nữ Việt Nam 19 tuổi lấy một người chồng Đại Hàn
47 tuổi tên là Jang đã bị chồng đánh chết khi cô không chịu nổi sự hành hạ của
chồng và đòi trở về nước. Trước một sự việc xúc động như vậy người ta vẫn không
thấy tòa đại sứ Việt Nam ở Đại Hàn lên tiếng. Thậm chí trong phiên tòa xử người
chồng giết vợ (12 năm tù ở) vào ngày 13/3/2008 tòa đại sự Việt Nam cũng không
cử đại diện đến tham dự. Khi một đài nước ngoài hỏi một vụ nghiêm trọng liên
quan đến công dân nước mình như vậy sao tòa đại sứ Việt Nam lại tỏ ra lơ là như
thế thì một đại diện của tòa đại sứ Việt Nam trả lời là tòa đại sứ “không được
tòa án Đại Hàn thông báo.”
Các
vụ việc trên cho thấy chính quyền Việt Nam do đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo
không quan tâm một cách thích đáng đến công dân nước mình ở nước ngoài. Sự vô
cảm này là một thái độ vô trách nhiệm khó hiểu, vì ngay các chế độ độc tài trên
thế giới dù rất tàn bạo trong nước cũng từng tỏ ra mạnh dạn can thiệp và bênh
vực khi công dân của họ bị ức hiếp ở nước ngoài. Tại sao có trường hợp bất xứng
như vậy? Chỉ có một cách giải thích là các giới chức Việt Nam đã cấu kết ăn
chia với các công ty xuất khẩu lao động và các công ty làm trung gian giới
thiệu thiếu nữ Việt Nam lập gia đình với người nước ngoài và nay bị bịt miệng
để việc làm ăn được trót lọt .
Điều
bất xứng khác là động thái của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong chuyến công du
mấy nước Âu châu đầu tháng 3/2008. Tại Anh ngày 5 tháng 3 khi trả lời một cuộc
phỏng vấn của phóng viên Humphrey Hawksley thuộc quốc tế vụ của đài BBC, ông thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố báo chí Việt Nam được hoàn toàn tự do. Trả lời câu
hỏi: “Việt
“Việt
Nội
dung trả lời của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng biểu lộ ông là một con người cộng
sản chân chính là nói dối không biết ngượng mồm. Phóng viên Humphrey
Hawksley
biết và cả thế giới đều biết chính quyền Việt Nam là một trong những chính
quyền chà đạp quyền tự do ngôn luận mạnh tay nhất trên thế giới. Hơn 600 tờ báo
tại Việt Nam đều nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của đảng cộng sản Việt Nam và
toàn đăng những tin tức dối gạt dư luận cho hợp đường lối của đảng. Tự do ngôn
luận tại Việt Nam đã được nhà báo Đào Hiếu, một đảng viên cộng sản nay đang phục vụ tại tòa soạn báo Tuổi Trẻ, miêu tả trong cuốn tự truyện “Lạc đường” của ông như sau: “… nghe cái gì cũng trái, con mắt nhìn cái gì cũng thấy có gai. Tôi đi chùa
tập thiền trong gần một năm, học theo Nam Tông, đọc Trung Bộ kinh, Bát
chánh Đạo, luyện Tứ Niệm xứ…
nhưng mỗi sáng giở tờ báo ra, đọc vài cái tít lớn là vứt đi vì ngày nào cũng
tràn ngập chuyện vớ vẩn, chuyện tham ô, chuyện lừa đảo. Viết lách thì như bồi
bút. Buổi tối bật tivi lên. Lại nói dối. … Lại trái cái lỗ tai. Không thể nhĩ thuận được, bèn đi học thiền.”
(6)
Sự nói dối trắng trợn của ông Dũng là một trong
những nguyên nhân tại sao báo chí các nước Âu châu (đặc biệt ở Anh và Đức)
không viết bài tường thuật đầy đủ chuyến đi của ông như họ thường làm đối với
các chuyến công du của một vị thủ tướng các nước khác. Chuyến đi của ông được
báo Anh và Đức đăng như tin ngoài lề. Tài nói dối không biết ngượng của ông thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đã làm mất uy tín quốc gia.
Nhiệm vụ tối thiểu của bất cứ một chính quyền nào -
kể cả những chính quyền độc tài - là bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ sự an
toàn cho công dân trong cũng như ngoài nước và sau cùng bảo vệ uy tín của quốc
gia trước cộng đồng thế giới.
Chính quyền Việt Nam trong tay đảng cộng sản Việt
Nam qua việc không làm tròn nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ; qua việc bỏ bê công dân
đi lao động hoặc đi lấy chồng ở nước ngoài; và sau cùng làm mất uy tín quốc gia
bằng những thủ đoạn dối trá dấu đầu lòi đuôi như những lời tuyên bố ngồi xổm
trên sự thật của ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Anh quốc về chính sách đối
với báo chí chứng tỏ chính quyền Việt Nam hiện nay là một chính quyền bất xứng.
Một chính quyền bất xứng không có chỗ đứng trong
lòng nhân dân và không đáng tồn tại. Nó chỉ còn tồn tại nhờ bạo lực của súng
đạn và nhà tù.
Trần Bình Nam
March 21, 2008
(1)
Một đoạn hỏi đáp giữa ông
Sỹ Hoàng và ông Phạm Thế Duyệt
Sỹ Hoàng: Tôi hiểu ý
của anh nhưng mà nếu mà mình cứ đàm phán với nó mà họ không chấp nhận cái
nguyên tắc phân chia và tôn trọng chủ quyền thì mình sẽ có thái độ như thế nào
anh? Tại vì tôi đang nghĩ tới việc phải trình với Liên Hiệp Quốc về việc
này để cho các nước trong khu vực đang thượng nghị thì anh có đồng ý việc này
hay không?
Phạm Thế Duyệt: Tôi cũng
chưa dám nghĩ như thế đâu, vấn đề ở đây không phải đồng tình hay không đồng
tình, mà vấn đề đó đối nội, đối ngoại phải đa dụng, mục tiêu phải đạt được điều
kiện nhất định mà mình phải là chính chớ không phải ngoài giúp gì mình giải
quyết cái đó một cách đơn giản đâu, tôi thì quan niệm như vậy. Liên hiệp quốc
muốn can thiệp nọ kia cũng không dễ gì, không phải nó bênh vực mình cách đơn
giản đâu. Liên hiệp quốc là ai thì bác biết rồi, cho nên là đừng có hy vọng ở
ngoài mà thái độ của mình tỏ chính kiến kiên quyết.
(2)
Theo « Whale
and Spratlys », The Economist Dec. 13, 2007
(3)
Theo tờ South China Morning Post số ngày 20/12/2007
(4)
Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng vốn là chủ tịch Ủy ban Cứu
Người Vượt Biển . Sau này làn sóng tị nạn chấm dứt, ông chuyển hoạt động
sang lĩnh vực giúp đỡ người Việt không ai đoái hoài ở nước ngoài, trong đó
nhiều nhất là diện xuất khẩu lao động.
(5)
Theo mạng Vietnam Review Liên Minh Bài Trừ Nô Lệ Mới Tại Á châu
(CAMSA) gồm 4 tổ chức: Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển ở Hoa Kỳ, Hội Nhân Quyền Quốc
Tế ở Đức, Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt-Nam ở Hoa Kỳ và Liên Hội Người Việt
ở Canada và được thành lập do sự phối hợp của Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển.
“Lạc đường”
của Đào Hiếu được phổ biến trên mạng www.talawas.com
Trần Bình Nam
|
http://www.tranbinhnam.com |