NATO & KOSOVO:

Tiến Thối Lưỡng Nan

 

Trần Bình Nam

 

Sau nhiều tháng do dự hôm Thứ tư 17/4/99 không lực của Liên phòng Bắc Đại Tây Dương (NATO) mở đầu các cuộc tấn công vào các lực lượng quân sự của Nam . Lý do: Chận đứng cuộc tàn sát diệt chủng tại Kosovo của tổng thống Slobodan Milosevic. Kosovo là một tỉnh thuộc Nam Tư, có hai triệu dân, 90% gốc Albanian, 10% gốc Serbs. Người Serbs chiếm đa số tại Nam .

Tấn công một nước có chủ quyền liên quan đến một vấn đề nội bộ của nước đó, trên nguyên tắc NATO vi phạm nguyên tắc dân tộc tự quyết. Nhưng các nhà lãnh đạo NATO, chính yếu là Hoa Kỳ cho rằng NATO hành động dựa trên một nguyên tắc cao hơn. Thế giới không thể ngồi yên nhìn kẻ mạnh giết kẻ yếu dù kẻ mạnh và kẻ yếu là đồng bào cùng một nước?

Trong thập niên 1940 & 1950 thế giới làm ngơ trước chính sách đàn áp thiểu số của Đức Quốc xã đã khuyến khích Hitler ra lệnh diệt chủng giết 6 triệu người Do thái. Và mới đây trong thập niên 1970 đã để cho Khmer Đỏ giết hai triệu đồng bào của họ. Nhìn lại, thế giới đã hết sức vô trách nhiệm, hèn nhát và giả dối.

Có một điều cấn cái cho NATO là nguyên tắc "không thể ngồi yên trước hành động diệt chủng" là một nguyên tắc đạo lý có thể tùy tiện áp dụng, trong khi nguyên tắc "dân tộc tự quyết" đã thành định chế trong bang giao quốc tế.

Vì vậy một số quốc gia trong khối NATO như Ý và Hy Lạp chỉ ủng hộ quyết định của NATO một cách miễn cưỡng. Trong khi đó Liên bang Nga phản ứng mạnh mẽ như từng chống chính sách Hoa Kỳ tại Việt Nam trước đây. Người Nga và người Serbs vốn cùng chủng tộc Slavic, và Liên bang nga đang bất mãn NATO mới nhận thêm 3 nước vốn thuộc khối ảnh hưởng Nga là Ba Lan, Hung gia Lợi và nước Tiệp cũ. Ngoài ra Liên bang Nga không muốn thấy hành động của NATO trở thành một tiền lệ có thể áp dụng trong trường hợp tương tự như cuộc đàn áp của Liên bang Nga đối với Chechnya mấy năm trước đây. Liên bang Nga là một liên bang 16 nước có nhiều vấn đề chủng tộc không khác liên bang Nam .

Cuộc bàn cãi lý thuyết: đúng hay sai, cần hay không cần, hữu ích hay không hữu ích về hành động của NATO có thể kéo dài bất tận. Nhưng trên thực tế, sự thành công hay thất bại của NATO sẽ ảnh hưởng đến trật tự của thế giới ít nhất trong nhiều thập niên đầu của thế kỷ 21. Thành công hay thất bại nằm ở cả hai phía, phía NATO chính yếu là Hoa Kỳ và phía Nam tư chính yếu là tổng thống Slobodan Milosevic.

Một bên là Hoa Kỳ. Trước ngày 19/3, ngày cuộc hòa đàm Rambouillet (Pháp) thất bại, tổng thống Clinton chưa chuẩn bị quốc hội và dân chúng Hoa Kỳ cho một cuộc chiến Hoa Kỳ có thể dính líu vào. Tổng thống Clinton cho rằng với áp lực của không lực NATO vấn đề Kosovo sẽ được giải quyết tại Rambouillet như vấn đề Bosnia đã được giải quyết tại Dayton, bang Ohio, Hoa Kỳ tháng 12 năm 1995. Quốc hội Hoa Kỳ do đảng Cộng Hòa chiếm đa số cũng lừng khừng. Đảng Cộng Hòa không xem vấn đề Kosovo quan hệ đến quyền lợi sinh tử của Mỹ và không muốn can thiệp vào một cuộc nội chiến.

Phút chót tổng thống Clinton thấy không thể ngồi yên trước hành động diệt chủng của Milosevic và Thượng viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu (58 trên 41) chấp thuận Hoa Kỳ tham gia cuộc oanh tạc của NATO một cách miễn cưỡng. Đảng Cộng Hòa không muốn được thế giới nhìn như một đảng thiếu đạo lý không có một nguyên tắc nào khác hơn là quyền lợi và chỉ biết tạo khó dễ cho tổng thống trong chính sách đối ngoại.

Bên kia của cuộc đấu trí là quyết tâm và khả năng huy động sự ủng hộ của dân chúng Nam Tư của tổng thống Milosevic. Về mặt này Milosevic có nhiều lợi thế hơn Hoa Kỳ. Tuy sắc dân Serbs chỉ chiếm 10% trong 2 triệu người Kosovo, Kosovo đối với người Serbs là một vùng đất bất khả phân. Tại đó họ đã đổ mồ hôi, đổ máu và chia xẻ vui buồn qua một lịch sử đài hơn 6 thế kỷ.

Người Serbs và người Albanians sống tại Kosovo từ thế kỷ thứ 14, và cuộc kháng chiến, sau đó bị bắt và bị giết của hoàng tử Lazar Hrebeljanovic người Serb chống lại cuộc xâm lăng của Thổ nhĩ kỳ tại Kosovo Polje gần thủ phủ Pristina bây giờ đã trở thành một trong những mẫu chuyện lịch sử đầy mầu sắc của Kosovo. Một trăm năm sau người Serbs bỏ Kosovo ra đi, và năm 1912 trở lại đánh đuổi người Thổ giành lại Kosovo. Trong thời gian thống trị của Thổ, đa số người Albanians cải đạo từ Thiên chúa giáo sang Hồi giáo và đã chiến đấu bên cạnh người Thổ chống lại người Serbs. Trong cuộc giải phóng Kosovo năm 1912 từ 20.000 đến 25.000 người Albanians bị giết.

Năm 1918 Nam Tư gồm ba nước Serbia, Croatia và Slovnia được thành lập, Kosovo thuộc Serbia. Thời gian giữa hai trận Thế giới đại chiến Kosovo là một vùng đất nghèo nàn bị lãng quên của Nam Tư. Người Albanians ở Kosovo bị kỳ thị. Ngôn ngữ không được phép dùng trong các trường học.

Sau Thế chiến 2 Nam tư trở thành nước cộng sản trong khối Liên xô dưới quyền của Thống chế Tito. Người Serbs lúc này chiếm 50% dân số Kosovo và sự căng thẳng giữa hai sắc dân Serbs và Albanians tại Kosovo dịu đi dưới chế độ cộng sản. Để bù đắp thiệt thòi trong quá khứ của sắc dân Albanians thống chế Tito cấm sắc dân Serbs kỳ thị người gốc Albanians. Đi xa hơn, năm 1974 Tito cho Kosovo tự trị. Người Albanians dần dần chiếm ưu thế. Từ năm 1980 sau khi Tito qua đời người Serbs rời bỏ Kosovo nghèo khó càng ngày càng nhiều trong khi người Albanians sinh sản không hạn chế đã biến Kosovo thành một vùng đất của 90% người Albanians như hiện nay. Người Serbs Kosovo trở thành thiểu số bị kỳ thị ngược lại.

Năm 1987 trong không khí cởi mở chính trị (glasnost) tại Liên bang Xô viết người Serbs biểu tình đòi quyền sống, và xô xát xẩy ra giữa hai sắc dân Serbs và Albanians. Đảng cộng sản Nam Tư phái Milosevic đến giải quyết và thái độ thân người Serbs của ông đã giúp ông đắc cử tổng thống Nam tư năm đó.

Năm 1989 Milosevic bãi bỏ qui chế tư trị của Kosovo, cuộc phản đối vũ trang của người gốc Albanian bắt đầu. Năm 1990 Milosevic gởi quân đội đến Kosovo, và năm sau với sự ủng hộ của nước Albania bên cạnh, một tổ chức chính trị li khai tuyên bố Kosovo độc lập. Năm 1996 tổ chức chính trị này thành lập đội quân kháng chiến giải phóng Kosovo. Sự giết chóc lẫn nhau giữa hai sắc dân Serb và Albanian leo thang và chính sách diệt chủng của Milosevic dẫn tới sự can thiệp của NATO hiện nay.

Nhìn dưới một góc cạnh nào đó cuộc không tập của NATO có thể so sánh với cuộc oanh tạc Bắc Việt của không lực Hoa Kỳ trong thập niên 1970 để buộc Hà Nội chấm dứt cuộc xâm lăng Nam Việt Nam. Milosevic đang khai thác tính cách tương tự này và đang mang sách vỡ của cộng sản Việt Nam ra dùng.

Trước hết ông đánh lừa dư luận thế giới rằng không có cuộc tàn sát nào tại Kosovo, chính "quân giải phóng" người Albanians đã giết người Albanians để tạo cớ cho NATO can thiệp (cũng như cộng sản Việt Nam từng tuyên bố không hề can thiệp vào nội bộ Nam Việt Nam trong khi họ gởi hàng trăm đơn vị quân chính qui vào Nam Việt). Cũng giống như Việt Nam trước đây Milosevic được Nga ủng hộ, Trung quốc im lặng, sự miễn cuỡng tham gia của một số thành viên NATO và sự lưỡng lự của quốc hội Hoa Kỳ. Milosevic học được rằng chỉ cần ráng chịu đựng, các cuộc không tập dù chính xác và đữ dội đến đâu cũng không ngăn được các cuộc hành quân của bộ binh nhất là trong vùng đồi núi và quân đội được trang bị nhẹ.

Kinh nghiệm khác là vừa đánh vừa đàm. Milosevic vừa cử đại diện đến dự hòa đàm tại Pháp vừa đẩy mạnh các cuộc tấn công tại Kosovo. Sau khi từ chối ký bản hiệp định hòa bình dưới sự bảo trợ của Liên hiệp quốc, Milosevic không nao núng trước đe doạ dùng vũ lực của tổng thống Clinton, bình tỉnh đón tiếp đại sứ Holbrooke. Và trong khi NATO oanh tạc ông càng tăng cường các cuộc hành quân chiếm đất đuổi dân để chuẩn bị thế đàm tất thắng sau này. Ông tiếp thủ tướng Liên bang Nga có thể để bàn kế hoạch chống NATO hơn là để nghe lời thuyết phục của Primakov. Milosevic không quên rằng trong thời gian Hà Nội và Hoa Kỳ hòa đàm tại Paris trong thập niên 1970 là thời gian các trận đánh ác liệt nhất diễn ra trên chiến trường Việt Nam. Cuộc tấn công Mậu Thân năm 1968, và cuộc tấn công qua tuyến 17 năm 1971, nếu chỉ kể vài trận đánh lớn.

Ván cờ là vậy. Nếu NATO, nhất là Hoa Kỳ không muốn thất bại cần chuẩn bị dư luận quốc tế bằng cách tố cáo ý đồ diệt chủng của Milosevic, xác định nhiệm vụ của quốc tế, và nhanh chóng thực hiện các cuộc hành quân bằng bộ binh chiếm Kosovo, cứu người Albanians khỏi cuộc tàn sát sau cùng và áp đặt một giải pháp quốc tế.

Trước đây Hoa Kỳ đã thất bại tại Việt Nam vì đánh mà không dám đánh, không dám chận đường tiếp vận của địch qua đường mòn Hồ Chí Minh, vì mơ hồ sợ Trung quốc can thiệp. Lần này nếu NATO do dự không dám đưa quân vào Kosovo cuộc không tập hiện nay sẽ hoàn toàn vô ích.

Hãy chờ xem lịch sử có tái diễn không. (March, 1999)


Trần Bình Nam

http://www.vnet.org/tbn