Đảng Cộng Sản Việt Nam
nếm mùi Dân Chủ
Trần Bình Nam
Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội ngày 10/6 là một
thử thách quan trọng của đảng Cộng sản Việt Nam. Và có thể nó là bước mở đầu
cho cơn lốc dân chủ tại Việt Nam.
Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm này không phải là một sáng
kiến mới. Nguyên tắc bỏ phiếu tín nhiệm các chức vụ Nhà nước do Quốc hội bổ
nhiệm được ấn định bởi Nghị Quyết của
Quốc Hội khóa X vào tháng 11 năm 2001.
Nghị Quyết này quy định rằng:
“Lấy phiếu tín nhiệm tại Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
nghĩa Việt Nam (CHXHCN) là quy trình hàng năm các đại biểu quốc hội
tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm dưới hình thức bỏ phiếu kín các chức danh lãnh đạo
nhà nước và chính phủ” (theo Wikipedia)
Nhưng
như một thông lệ các văn kiện trong một nước Cộng sản (trong đó có nước Cộng
sản Việt Nam) từ bản Hiến Pháp, đến Nội Quy sinh họat Quốc Hội hội đều chứa
đựng những điều tốt đẹp nhất về tự do dân chủ nhưng chỉ để làm cảnh chứ không
bao giờ được đem ra áp dụng. Mọi quyết định, tín nhiệm ai, không tín nhiệm ai,
làm gì đều do Bộ chính trị quyết định, rồi (nếu cần) thì mang ra Quốc Hội biểu
quyết theo lệnh. Các cuộc biểu quyết của Quốc Hội để “nhân dân hóa” quyết định
của Bộ chính trị do đó khi nào cũng trên 90%.
Hôm
10/6, một ngày sẽ đi vào lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam, lần đầu tiên Quốc Hội
Khóa XIII áp dụng nguyên tắc bỏ phiếu tín nhiệm một cách tự do các chức vụ chủ chốt do Quốc Hội bổ nhiệm với biểu
quyết đa số. Có tất cả 47 chức vụ chủ chốt do Quốc hội bổ nhiệm trong đó có Chủ
tịch Nước, Chủ tịch Quốc Hội, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và hầu hết các
viên chức lớn trong bộ máy Nhà nước.
Có
nhiều nguyên nhân đưa đến quyết định thực hiện cuộc bỏ phiếu tín nhiệm này.
Trong năm qua sự bất hòa giữa các đảng viên cao cấp trong Bộ chính trị gồm một
bên là Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước (liên minh với Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí
thư Đảng), bên kia là Nguyễn Tấn Dũng,
Thủ tướng Chính phủ (liên minh với Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc Hội) đã đến
mức trầm trọng có thể xé nát đảng mà Bộ chính trị không có phương giải quyết vì
bản chất phe phái không dân chủ của chính Bộ chính trị. Cho nên có thể có sáng
kiến dùng nguyên tắc bỏ phiếu tín nhiệm với một cuộc bỏ phiếu hoàn toàn tự do
tại quốc hội để đa số đánh giá các phe phái trong cuộc tranh chấp.
Và
như được quy định bởi Nghị Quyết 35 của Quốc Hội khóa 13, một trong những mục đích của việc đánh giá
tín nhiệm này là để loại bỏ những vị trí chưa làm tròn chức trách.Việc loại bỏ thực hiện qua nhiều công đoạn. Sau vòng lấy phiếu tín nhiệm, phải cần đến
2/3 đại biểu Quốc hội đánh giá “tín nhiệm thấp” hoặc
bị hơn một nửa Quốc hội đánh giá “tín nhiệm thấp” hai
năm liên tục, một vị trí nào đó mới đứng trước nguy cơ mất chức. Tuy nhiên việc mất chức chỉ diễn ra trong vòng bỏ phiếu “tín
nhiệm” hay “bất tín nhiệm” trong kỳ họp quốc hội sau.
Nhìn
bản kết quả bỏ phiếu tín nhiệm do Quốc Hội chính thức công bố người ta có thể
thấy tính cách bỏ phiếu tự do của nó.
Trong số 492 đại biểu quốc hội hiện diện (theo RFA)
không kể vài phiếu trắng, ông Trương Tấn Sang, chủ tịch nước được 66.27% tín
nhiệm cao, 5.62% tín nhiệm thấp. Trong khi ông Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng, địch
thủ chính của ông Trương Tấn Sang chỉ được 42.17% ủng hộ cao và 32.13% tín nhiệm thấp. Ông Nguyễn Sinh Hùng,
Chủ tịch Quốc hội được 65.86% tín nhiệm cao, và chỉ 5.02% tín nhiệm thấp.
Kết quả cuộc bỏ phiếu là một thông điệp quan trọng của
Đảng cho ông Nguyễn Tấn Dũng. Nếu hiểu “tín nhiệm thấp” là “bất tín nhiệm”
(người Cộng Sản thường sợ sự thật không muốn dùng danh từ có tính bi quan) thì
tác dụng tâm lý của cuộc biểu quyết đối với thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có tính
quyết định. Nếu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng còn bám trụ được qua bao nhiêu phong
ba bão táp cho đến giờ này (vì ông không có văn hóa từ chức mà chỉ có một thứ
văn hóa là lệnh một chiều của đảng) thì ông cũng khó trụ được ở chức vụ thủ
tướng trước cơn gió dân chủ nội bộ.
Nhưng ảnh hưởng của cuộc bỏ phiếu tín nhiệm lần này sẽ
không ngừng ở việc tạm giải quyết việc tranh chấp nội bộ đảng mà nó có thể có
ảnh hưởng đến sinh hoạt Đảng một cách căn bản. Đây là lần đầu tiên các đảng
viên được nếm mùi dân chủ. Chất men dân chủ khi đã nếm thì không thể khước từ
được nữa.
Nó có thể là cơ hội mở cổng dân chủ như năm 1986 Tổng
bí thư đảng Cộng Sản Liên bang Xô viết
Mikhail Gorbachev mở cổng dân chủ bằng hai chương trình “cởi mở”
(Glasnost) và “Tái cấu Trúc” (Perestroika) và đã cuốn trôi một chế độ độc tài
đảng trị.
Phải chăng một cơn bão đang hình thành tại Việt Nam?
Trần Bình Nam
June 12, 2013