Nghĩ Gì Về "Một Cái Nhìn Trở Lại"

của ông Trần Độ

 Trần Bình Nam

Cuối tháng 11/98 trong nước chuyển ra một thiên bút ký mang tựa đề "Một Cái Nhìn Trở Lại" của ông Trần Độ, một cựu tướng lãnh cộng sản hồi hưu. Thiên bút ký dài 23 trang nếu in bằng chữ nhỏ, trên 30 trang nếu in bằng chữ cỡ thường. Đây không phải lần đầu tiên ông Trần Độ lên tiếng về các vấn đề liên quan đến đất nước. Nhưng thiên bút ký dài này mang tính chất nghiên cứu hơn và bộc lộ nỗi lòng của ông hơn.

Ông Trần Độ năm nay 75 tuổi, và theo lời ông "tôi đã sống 75 năm trong 100 năm sôi động vừa qua. Tôi đã trải và nghiệm ra nhiều điều, nhiều lẽ. Những trải nghiệm này có nhiều điều hay và tốt. Nhưng cũng có những điều đau. Tôi ghi lại để tôi ngẫm cùng tôi, nhưng những điều suy ngẫm ấy có thể giúp ích cho con cháu sau này, cho dù chúng cũng có những trải nghiệm của chúng."

hai câu thơ của Bùi Minh Quốc để tả Ông Trần Độ trung thực ghi lại cái đau của ông về những sai lầm của đảng cộng sản Việt Nam. Khởi đầu bút ký ông bàn về "vấn đề giai cấp", điểm then chốt của chủ nghĩa Mác, xem đó như là phát hiện ngời sáng nhất đã kích thích ông lao vào cuộc chiến tranh chống Pháp giành độc lập. Ông khẳng định nhờ thuyết "giai cấp" mà đảng cộng sản đã lãnh đạo quần chúng thành công qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp giành độc lập và cuộc chiến tranh thôn tính miền nam Việt Nam để thống nhất đất nước.

Nhưng ông tiếc, sau khi thống nhất, "không những Đảng và dân đã là hai, mà ngay trong Đảng cũng thành hai. Một Đảng gồm những người không có chức vụ hoặc chức vụ thấp. Một Đảng gồm những người có chức vụ cao và quyền lực, quyền lợi cao.". Ông trích dẫn nỗi lòng của những đảng viên không có chức vụ hoặc chức vụ thấp:

"Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt

Lại đúc nên chính cỗ máy này!"

Ông Trần Độ phân tích rằng có sự thể như vậy vì "ý thức giai cấp" sai đường giả dối. Cái gì cũng "công", cũng "nông" và đánh giá thấp mọi tầng lớp khác, trong khi các thành phần lãnh đạo đều không phải là công nông. Ông viết: "trong thực tiễn đấu tranh cách mạng có hai hiện tượng rõ rệt: một là, tinh thần dũng cảm chiến đấu và hy sinh quyết liệt của các cán bộ và chiến sĩ xuất thân từ công nông, số này chiếm đa số. Mặt khác, phần lớn các đồng chí lãnh đạo ở cấp cao nhất đều không phải xuất thân từ công nông mà xuất thân từ những tầng lớp trung lưu hoặc tầng lớp trên của xã hội.", và ông vừa chua chát vừa khôi hài kết luận: "Nhưng tình hình này không được coi là thí dụ của một khả năng cách mạng của những người thuộc tầng lớp phi công nông."

Ông Trần Độ lý luận, từ "ý thức giai cấp" đó đưa đến "thành phần chủ nghĩa" và "chủ nghĩa lý lịch" xem "trí thức là tầng lớp bóc lột, tầng lớp không tin cậy, nhất là trí thức văn nghệ sĩ."

Đó là phần thứ nhất. Phần thứ hai của thiên bút ký ông Trần Độ bàn về "việc Đảng."

Sau khi lược qua lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam và quá trình tham gia đảng cộng sản và thành tích phục vụ Đảng của ông, ông khẳng định: "Lịch sử của Đảng gắn liền với lịch sử dân tộc. Ai nhìn lịch sử dân tộc mà tách khỏi lịch sử Đảng cộng sản là không được.".

Trong chúng ta chắc không ai cãi cọ với ông Trần Độ về điểm này. Tuy nhiên có nhiều cách để một đảng chính trị hay một nhà lãnh đạo gắn liền với lịch sữ dân tộc. Danh thơm cũng gắn mà xú danh cũng được gắn, đó là chuyện của lịch sử. Nhưng ông Trần Độ không vì ca tụng Đảng mình mà quên sự đóng góp của các đảng chính trị khác. Ông là một trong những người cộng sản hiếm hoi nhận ra Nguyễn Thái Học là một anh hùng. Ông viết: "Đảng cộng sản là một đảng kiểu mới so với những đảng chính trị trước năm 1930, trong đó có Quốc Dân Đảng của anh hùng Nguyễn Thái Học. Những đảng ấy không thiếu tinh thần yêu nước và đức hy sinh". Nhưng ông chê những đảng ấy "có nhiều nhược điểm về tổ chức".

Bàn về "dân chủ tập trung" ông công nhận nguyên tắc dân chủ tập trung, nói nôm na là nguyên tắc "phục tùng", phục tùng từ dưới lên trên theo hàng dọc cho đến phục tùng người lãnh đạo tối cao của Đảng là một "nguyên tắc ... chấp nhận được" trong chiến tranh, nhưng trong hòa bình "phục tùng" đưa đến việc "giá trị một ý kiến không phụ thuộc vào chất lượng ý kiến đó mà phụ thuộc vào người phát biểu ý kiến đó là ai, thuộc cấp bậc nào, và ý kiến đó phục tùng ý kiến nào" đã sinh ra "tệ súng bái cá nhân" và "tham nhũng" biến Đảng thành một đảng độc tài, độc tài với nhau và độc tài với dân.

Ông Trần Độ giải thích quá trình biến đảng cộng sản Việt Nam thành "đảng của quyền lực tối cao" lãnh đạo "toàn diện, tuyệt đối, triệt để cả về tư tưởng và tổ chức" là do đảng cộng sản Việt Nam học của Trung quốc qua việc tổ chức hệ thống chính ủy trong quân đội để "nắm chặt các lực lượng vũ trang không để cho một lực lượng chính trị nào có ảnh hưởng" để qua đó áp đặt đường lối lãnh đạo chiến tranh của Đảng. Ông viết: "Từ phương thức này mà Đảng trở thành Đảng của quyền lực tối cao", chủ nghĩa cá nhân bị đả kích và tiêu trừ. Và ông nhắc: "Ngày nay lịch sử đã sang trang. Vậy mà cái phương châm được áp dụng trong thời chiến ấy vẫn không hề thay đổi."

Thật ra việc đảng cộng sản kiểm soát quân đội phát xuất từ nguyên tắc "vô sản chuyên chính" chủ trương đàn áp và tiêu diệt bất cứ sự đối lập chính trị nào. Muốn chuyên chính phải nắm các lực lượng vũ trang. Đó là tổ chức của quân đội các nước cộng sản, từ Liên xô, Trung quốc, Đông âu, Cuba thời chiến cũng như thời bình.

Cuối cùng ông Trần Độ đề nghị một loạt cải tổ như Đảng phải biết dùng người có tài, chăm lo giáo dục, phát huy văn hóa dân tộc, bén nhạy để giải quyết vấn đề tham nhũng, giải quyết vấn nạn mất lòng dân, và giải quyết nạn buôn lậu, ma túy, trộm cướp. Ông Trần Độ nói những cải tổ trên có thể làm được nếu ông thầy thuốc (đảng cộng sản) chẩn bệnh đúng và cho đúng thuốc.

Ông nhấn mạnh đảng cộng sản "chỉ là một bộ phận nhỏ của nhân dân, của dân tộc," nên muốn thành công trong lãnh đạo Đảng phải để cho nhân dân tham gia quyết định. Ông nhắc rằng Đảng nói "Nhà nước của dân, do dân, vì thuộc địa và đến với ông trước như môt người tình đầu tiên. Và ông đã vào tù ra khám can trường lăn vào cuộc đấu tranh giành độc lập.

Khi thành công thì với cỗ xe độc tài có sẵn ông Trần Độ với tư thế cá nhân trong hệ thống ông có thể nhắm mắt vừa hưởng thụ vừa nói những lời đạo đức như các đồng chí lớn của ông. Nhưng ông còn một tấm lòng, một sự lương thiện tối thiểu để nói lên lời trung thực khi thấy dân tình khốn khó, đất nước bị tụt hậu, dù vì vậy mà ông trở thành kẻ bị theo dõi canh chừng.

Nhưng tấm lòng của ông Trần Độ chỉ tới Đảng, chưa vươn tới dân, dù trong thiên bút ký ông hay nói đến dân. Chính ông xác nhận: "Càng nghĩ đến thế kỷ 21 sắp tới tôi càng lo lắng bồn chồn, đến nổi nhiều lúc phải chống bút mà ứa nước mắt, không cầm được. Hình như có tờ báo nào đó ở nước ngoài có viết rằng, 'Trần Độ chẳng qua là một con ngựa già đang ra sức đem sức tàn ra bảo vệ Đảng của mình'. Té ra người ngoài Đảng, lại ở ngoài nước mà lại có những nhận xét thông minh hơn những kẻ gọi là người trong Đảng."

Chúng ta không trách ông Trần Độ yêu Đảng của ông, một người 75 tuổi đời, 58 tuổi đảng như một tín đồ yêu Chúa, yêu Phật, vì ít nhất đó cũng là một tính chung thủy đáng quí. Ông yêu Đảng nên muốn Đảng lột vỏ, đổi mới để tiếp tục làm nhiệm vụ lãnh đạo. "Cái nhìn trở lại" của ông chỉ tới đó.

Nhưng ông quên một qui luật. Những tệ hại Đảng cộng sản mang lại cho đất nước hôm nay là do quan niệm về kinh tế sai lầm và tổ chức quyền lực cực đoan của thuyết Mác-Lênin, chứ không do con người. Cá nhân nào vào bộ máy đó cũng chỉ có hai con đường, hoặc dùng bộ máy phục vụ mình, hoặc - nếu còn lương tâm - chống lại và bị đào thải. Đảng cộng sản nào trên thế giới đấu tranh cũng hữu hiệu nhờ thuyết phục, thuyết phục không được thì khủng bố, nhưng không có một đảng cộng sản nào làm cho đất nước nó cai trị phú cường. Liên bang Xô viết chỉ một thời, và bây giờ đang đói, Trung quốc đang lên chỉ là hiện tượng nhất thời nếu không kịp cải tổ chính trị để thoát ra cái khuôn "Đảng tri."

Vì vậy không có công thức "dân chủ trong Đảng" để cứu nước như ông Trần Độ mong ước.

Những điều ông Trần Độ trải lòng ra mà viết những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam từ Hồ Chí Minh, đến Lê Duẫn, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và bây giờ Lê Khả Phiêu từng nói như vẹt trước Quốc hội, trước các Đại hội đảng, nhưng không bao giờ thực hiện được.

Qui luật buộc rằng muốn đổi mới phải có dân chủ, không phải "dân chủ trong Đảng" mà là dân chủ trong dân qua bầu cử tự do. Nếu dân thi hành được quyền dân chủ đích thực qua bầu cử tự do thì đảng chính trị nào, nhà chính trị nào không dân chủ sẽ bị đào thải.

Trong tình hình thực tế hiện nay, quá trình dân chủ hóa là một quá trình dài và phức tạp chỉ có thể thực hiện qua thay đổi định chế chính trị, luật pháp, giáo dục, và cần thời gian. Đảng cộng sản đang có một vị thế chính trị thuận lợi để thực hiện cuộc cải tổ này, không phải bằng cách dân chủ hóa nội bộ Đảng để trở thành ông "vua hiền" mà là cải tổ định chế trong khuôn khổ tạo cho dân điều kiện lấy quyết định và sẵn sàng chấp nhận phán quyết dân chủ của dân. Sự cải tổ này có thể thực hiện trong ổn định.

Phải chi trong thiên bút ký ông Trần Độ "hiếu với dân" hơn "trung với đảng" bạo dạn đề nghị Đảng thông qua Quốc hội hủy bỏ điều 4 Hiến pháp (qui định Đảng cộng sản là đảng lãnh đạo) như bước đầu xây dựng một định chế dân chủ đa nguyên trên thuận dưới hòa trong tinh thần thượng tôn pháp luật.

Thiên bút ký chứng tỏ ông Trần Độ là một người cộng sản lương thiện. Chúng ta ước mong ông còn là một người Việt Nam chân chính (Dec. 1998)


Trần Bình Nam

http://www.vnet.org/tbn