Cuộc đời tù đày và đấu tranh của
nhà thơ Nguyễn Chí Thiện
Trần
Bình Nam
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện qua đời tại bệnh viện
Western Medical Center tại Santa Ana, Little Sài gòn sáng sớm ngày 2 tháng 10
năm 2012. Anh ra đi khi trời hừng sáng, bình an như sự lựa chọn của anh. Tôi
đến thăm anh ngày 1/10. Bên giường bệnh là nhà báo Trần Phong Vũ. Anh Vũ cho
biết dường như anh Nguyễn Chí Thiện bị ung thư phổi. Và bác sĩ đã báo cho anh
Thiện triệu chứng nhưng anh không tiến hành chữa trị. Anh có sự lựa chọn của
một người cao niên biết bị bệnh hiểm. Trên giường bệnh trắng tinh anh nằm im,
nước da hồng hào, trán ấm, thở dưỡng khí, không trao đổi được bằng lời nhưng
đôi mắt tinh anh cho biết anh còn nhận được anh em.
Thật buồn và thật là một mất mát lớn. Cái dũng khí,
cái nhìn lớn của anh Nguyễn Chí Thiện là một thứ quý hiếm lịch sử Việt Nam
không phải lúc nào cũng có.
Theo
các tài liệu anh Nguyễn Chí Thiện sinh năm 1939 tại phố Hàng Bột Hà nội, sau về
Hải Phòng sinh sống. Năm 1958 nhân dính líu với vụ Nhân Văn Giai Phẩm anh bị tù
2 năm. Năm 1961 anh lại bị bắt vì tham gia nhóm Đoàn Kết. Ra tù anh Nguyễn Chí
Thiện vẫn tiếp tục các hoạt động chống đảng Cộng sản. Năm 1965 anh bị bắt lại
và lần này bị giam 13 năm qua các trại tù nằm dọc sông Hồng Hà.
Sau khi cộng sản chiếm miền nam, năm 1978 Nguyễn Chí
Thiện được phóng thích và trả về Hải Phòng. Anh làm nghề kèm trẻ tại tư gia để
sống. Mẹ anh mất năm 1970, bố anh mất vài năm sau đó.
Nguyễn Chí Thiện được thế giới bên ngoài biết đến qua
tập thơ mang nhiều tên như “Tiếng Vọng
Từ Đáy Vực”, “Hoa Địa Ngục” anh
âm thầm làm trong những năm tù đày. Ngày 2/4/1979 anh lần mò lên Hà nội, quẳng
tập thơ vào khuôn viên tòa đại sứ Anh. Anh bị bắt.
Do sự
can thiệp của Hội Văn Bút Quốc Tế, Hội Văn Bút Việt Nam Hải ngoại và cộng đồng
người Việt tị nạn, năm 1990 anh được trả tự do. Cuối năm 1995, sau khi thiết
lập bang giao với Hoa Kỳ, Hà nội cho phép anh sang định cư tại Hoa Kỳ dựa vào
thủ tục bảo lãnh của người anh ruột nguyên là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng
Hòa.
Tập thơ của anh được chính phủ Anh giao lại cho cộng
đồng Việt Nam và nội dung của nó đã tạo nên một xúc động chưa từng có. Tập thơ
đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nó chứa đựng mặt thật của chủ nghĩa cộng sản
và chế độ mang tên nó tại Việt Nam. Tập thơ cũng chứa đựng những tiên đoán
chính xác về sự suy tàn của chủ nghĩa, và sự yếu kém của thế giới trước sức
mạnh yêu ma của chủ nghĩa cộng sản, nhất là sự hoang tưởng của một số trí thức
và triết gia phương Tây.
Hôm nay Nguyễn Chí Thiện đã nằm xuống, chúng ta hãy
ngoãnh nhìn cuộc đời của anh để ghi lại những kỳ tích của một cuộc đời đấu
tranh chống bạo tàn hiếm có.
Năm 16 tuổi khi quân đội của ông Hồ Chí Minh vào
tiếp thu thành phố Hà nội, anh vui mừng trong vận hội mới:
Ngày ấy tuy xa mà như còn đấy
Tuổi hai mươi tuổi bước vào đời
Hồn lộng cao, gió thổi chơi vơi
Bốn phía bao la chỉ thấy
Chân mây rộng mở tuyệt vời
Đồng Lầy -
1972
Nhưng Nguyễn Chí Thiện đã nhanh chóng nhận thấy sự
tráo trở bất lương của người cộng sản:
Bùn đọng hồ ao mạn dưới phục chờ
Tuổi hai mươi tuổi của không ngờ
Không sợ!
Đồng Lầy -
1972
Chiến dịch cải cách ruộng đất đã biến Việt Nam thành
một đấu tố trường đầy máu và nước mắt:
Ngàn vạn đấu trường mọc dậy giữa ban mai
…………………
Bãi sú, bờ lau, rừng rú
Thây người vun bón nuôi cây
Đạo lý tối cao của xứ đồng lầy
Là lừa thầy phản bạn
Và tuyệt đối trung thành với vô hạn
Với Đảng, với Đoàn, với lãnh tụ thiêng
liêng
Đồng Lầy -
1972
Nhận thức của Nguyễn Chí Thiện đã đưa anh vào tù năm
1958 và ra vào nhiều lần tổng cọng30 năm. Nhưng lao tù không khuất phục được
anh:
Dù đời ta sa đáy vực khổ oan
Cũng được, miễn là thoát ra khỏi đó
Đời ta sẽ tự do như gió
Mang lời ca tha thiết tâm can
Dù đời ta -
1973
Nguyễn Chí Thiện không tin tưởng suông. Anh tin
tưởng các chế độ cộng sản sẽ sụp đổ với một luận cứ vững chắc không khác gì 4
thế kỷ trước nhà khoa học Galileo người Ý đã tin quả đất tròn dù phải bị xử tội
chết. Nguyễn Chí Thiện nhắn với đảng cộng sản:
Người
nhô lên trong cơn động đất nhất thời
Thì rồi cũng có thể nhất thời
Người chìm trọn trong những cơn động đất
Núi – 1973
Lời tiên đoán của anh đã xẩy ra 17 năm sau khi hàng
lọat các nước cộng sản Đông Âu rồi đến Liên xô, thành trì của chủ nghĩa sụp đổ.
Năm 1975 khi được tin cộng sản Hà nội chiếm trọn
miền Nam, Hoa Kỳ rút quân, cả thế giới cúi đầu nhục nhã, Nguyễn Chí Thiện đang
bị giam tại nhà tù Phong Quang Lào Kay bình tĩnh viết:
Khi Mỹ chạy bỏ miền Nam cho cộng sản
Sức mạnh toàn cầu nhục nhã kêu than
Giữa lao tù bệnh hoạn cơ hàn
Thơ vẫn bắn, và thừa dư sức đạn!
Vì thơ biết một ngày mai xa xôi nhưng
sáng lạn
Không dành cho thế lực yêu gian
Khi Mỹ chạy
– 1975
Anh khuyên thế giới đừng sợ hải và mất lòng tin
Đừng sợ cái cực kỳ man rợ
Dù nó đương thời rông rỡ nơi nơi
Phải vững tin vào bước tiến con người
Đừng sợ -
1975
Nhưng trong trí óc tuyệt vời và nhân bản của anh, Nguyễn
Chí Thiện vẫn mường tượng một tiến trình sụp đổ trong hòa bình, một điều không
một nhà chính trị lớn nào trên thế giới dám tiên đoán cho mãi đến năm 1989. Năm
1971 khi đang bị giam tại nhà lao Phú Thọ, anh đã làm bài thơ “Sẽ có một ngày”
bất hũ:
Sẽ có một ngày con người hôm nay
Vất súng vất cùm, vất cờ, vất Đảng
Đội lại khăn tang, quay ngang vòng nạng
Oan khiên!
Về với miếu đường mồ mã gia tiên
Mấy chục năm trời bức bách lãng quên
Bao hận thù độc địa dấy lên
Theo hương khói êm lan, tan về cao rộng
Tấ cả bị lùa qua cơn ác mộng
Kẻ lọc lừa kẻ bạo lực xô chân
Sống sót về đây an nhờ phúc phận
Trong buổi đoàn viên huynh đệ tương thân
Đứng bên nhau trong mất mát quây quần
Kẻ bùi ngùi hối hận
Kẻ bồi hồi kính cẩn
Đặt vòng hoa tái ngộ lên mộ cha ông
Khai sáng kỷ nguyên tả trắng thắng cờ
hồng
Tiếng sáo mục đồng êm ả
Tình quê tha thiết ngân nga
Thay tiếng “Tiến Quân ca”
Và “Quốc Tế ca”
Là tiếng sáo diều trên trời xanh bao la!
Sẽ có một
ngày -1971
Hôm nay Nguyễn Chí Thiện đã vĩnh viễn rời chúng ta,
nhưng tinh thần anh vẫn còn đây: trong sáng, kiên quyết, nhìn xa, nhân bản giữa
đại nạn của nhân loại và của đất nước không may vẫn còn đầy chia rẽ của chúng
ta.
Anh Nguyễn Chí Thiện! Anh đi như một vì sao chợt
tắt. Nhưng ánh sáng xẹt trên nền trời vẫn còn ôm ấp, an ủi và nuôi dưỡng lòng
tin của dân tộc Việt Nam.
Trần Bình Nam
Oct. 3, 2012