Thanh Quang, phóng viên đài Á Châu Tự Do
phỏng vấn Trần Bình Nam
Chung quanh lời tuyên bố của ông Nguyễn
Chí Vịnh
Thanh
Quang: Thưa ông,
tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ QPVN, bị nhiều chỉ trích về hành động sai
trái của ông ta trong quá khứ, nhất là liên quan vụ Tổng Cục 2 và T4. Đặc biệt
là gần đây nhất, ngay sau diễn tiến tốt đẹp về mối quan hệ quốc phòng Việt-Mỹ
được nâng lên cấp thứ trưởng lần đầu tiên, qua đó tướng Nguyễn Chí Vịnh gặp gỡ
Thứ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Shers, thì ông Vịnh sang Bắc Kinh nhấn mạnh
rằng VN “ủng hộ và vui mừng” trước sự phát triển quốc phòng của TQ, và cam kết
chính sách quốc phòng “3 không” của VN mà chúng ta sẽ đề cập ở phần sau. Điều
này khiến nhiều ý kiến phẩn nộ, cho rằng tướng Vịnh nói riêng và Hà Nội nói
chung luồn cúi, nhu nhược trước Bắc Kinh và bỏ qua cơ hội khai thác sức mạnh
của Mỹ để bảo vệ tổ quốc.
Nhưng trong bài
viết hồi đầu tháng 9 này tựa đề “Một cách nhìn khác về Nguyễn Chí Vịnh – Thứ
trưởng Bộ Quốc Phòng”, ông đã mở đầu rằng “…trong sự chuyển hướng chính sách
trước mắt, ông Nguyễn Chí Vịnh đã thi hành công tác ngọai giao/chính trị của Bộ
Chính trị đảng CSVN một cách hòan hảo xứng hợp với chức vụ thứ trưởng Bộ Quốc
phòng của ông”.
Xin ông cho biết
lý do ông lập luận như vậy?
Trần
Bình Nam: Tôi không có ngạc nhiên gì khi thấy có một số báo
chí và một số nhà bình luận hải ngoại chỉ trích tướng Nguyễn Chí Vịnh, là vì
ông ta từng mang tiếng là thân Trung Quốc. Thân Trung Quốc đã trở thành cái
nhãn hiệu của ông ta. Nhưng nếu chúng ta tạm quên cái nhãn hiệu đó để quan sát
và phân tích động thái và lời lẽ của ông qua cuộc họp báo tại Bắc Kinh ngày 25
tháng 8 vừa rồi thì chúng ta phải công nhận rằng trước những câu hỏi hắc búa
của báo giới, ông Vịnh đã trả lời rất khôn khéo và rất ngoại giao. Nội dung các
câu trả lời của ông Vịnh đã xác định được cái lập trường của Chính Phủ Việt Nam
là không thiên về phe nào trong hai phe Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Thanh Quang: Trong thời gian gần
đây ngày càng có nhiều dấu hiệu khá rõ nét và đáng ngại là giới lãnh đạo Hà Nội
tỏ ra quá mềm yếu, không bảo vệ được ngư dân Việt Nam, rồi sẵn sàng nặng tay
đối với người dân dám công khai phản đối Phương Bắc ngang ngược lấn lướt Việt
Nam, nhưng qua bài viết vừa nói của ông thì ông lưu ý rằng có dấu hiệu từ nhiều
năm qua họ - tức cấp lãnh đạo chóp bu của Đảng CSVN - trăn trở tìm một con
đường thoát nanh vuốt của Trung Quốc.
Xin ông giải thích về điểm này ạ.
Trần Bình Nam: Vâng, có một
điều chúng ta cần nhận thấy là thế nước nhỏ đôi khi rất khó khăn, nhất là giữa
nước nhỏ như Việt Nam chúng ta bên cạnh một nước lớn như Trung Quốc đang vươn
lên để trở thành siêu cường. Nước nhỏ cạnh nước lớn như vậy muốn yên thân thì
phải khôn khéo, giống như ông cha chúng ta trong quá khứ có lúc rất mạnh có thể
đánh Trung Quốc nhưng vẫn phải khôn khéo với Trung Quốc như thường.
Và càng phải khôn khéo khi không có một đối trọng
nào với Trung Quốc bên cạnh. Nhưng đôi khi khéo quá thì cũng trở thành nhu
nhược như chúng ta đã thấy. Hà Nội có vẻ nhu nhược đối với Trung Quốc trong các
vụ tranh đất, tranh biển, vụ nhượng mỏ bô-xít, vụ ngư dân Việt Nam bị Trung
Quốc bắt nạt và không được bảo vệ một cách thích đáng, vụ Hoàng Sa - Trường Sa,
v..v.
Nhưng dưới cái bề ngoài rắc rối mọi bề đó chúng ta
cũng ghi nhận được là Hà Nội cũng đã từng trăn trở tìm con đường thoát hiểm. Về
vấn đề này thì giữa năm 2008 ông Giáo Sư Carl Thayer, thuộc Viện Nghiên Cứu
Quốc Phòng Úc Châu, có viết một tài liệu, mà theo nội dung tài liệu đó thì các
hoạt động tìm đường thoát hiểm của Việt Nam đối với Trung Quốc được bắt đầu
ngay sau khi Việt Nam tái thiết lập bang giao trong tư thế cầu cạnh Trung Quốc,
sau khi Khối Liên Xô sụp đổ, không còn chỗ dựa vào năm 1991. Và sự tìm đường
thoát hiểm này chuyển biến theo một nhịp độ nhanh hơn kể từ Đại Hội X của Đảng
CSVN năm 2006, nhất là sau chuyến thăm viếng của Tổng Thống Bush và Việt Nam
gia nhập Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (WTO).
Theo tài liệu đó, nói về nỗ lực thoát hiểm trong
lĩnh vực ngoại giao thì từ tháng 11-1991 khi Việt Nam tái thiết lập bang giao
với Trung Quốc cho đến năm 2004 Việt Nam đã nỗ lực tối đa tìm kiếm đồng minh và
làm thân với nhiều nước trên thế giới như Ấn Độ, Liên Bang Nga, Hoa Kỳ, Pháp,
Nam Dương (Indonesia), Singapore, Nhật Bản, Úc, ngay cả những nước rất là nhỏ
như Miến Điện (Myanmar), Ukraine, Ba Lan, v.v. và đặc biệt trong láng giềng của
mình Việt Nam thắt chặt quan hệ quốc phòng với các nước trong Hiệp Hội Các Quốc
Gia Đông Nam Á (ASEAN), nhất là với Thái Lan và Phi Luật Tân (Philippines).
Về mặt quốc phòng thì từ năm 1991Việt Nam đã bắt đầu
lo trang bị vũ khí và mua khá nhiều vũ khí của Nga, và chẳng những của Nga mà
còn mua vũ khí của Do Thái, của Nam Hàn (Hàn Quốc).
Và khởi điểm từ Đại Hội X của Đảng CSVN tháng Tư năm
2006, nhất là khi Tổng Thống Mỹ George W. Bush đến Hà Nội dự hội nghị thưởng
niên APEC cuối năm đó và sau khi Việt Nam vào WTO, theo tài liệu của GS Carl
Thayer, thì trong nội bộ giới lãnh đạo Hà Nội đã xuất hiện hai khuynh hướng,
một khuynh hướng bảo thủ tức là khuynh hướng cảnh giác chính sách diễn biến hòa bình của Hoa Kỳ, và một khuynh
hướng khác gọi là khuynh hướng hội nhập
chủ trương hòa mình nhanh chóng vào kinh tế toàn cầu, mà trong đó Hoa Kỳ là một
đối tác quan trọng.
Và mới đây nhất, từ tháng 7, sau hội nghị ARF tại Hà
Nội, Ngoại Trưởng Hillary Clinton đến đó và công bố chính sách mới của Hoa Kỳ
tại Biển Đông, nhìn những động thái của Việt Nam thì thấy ngay rằng Việt Nam
hết sức phấn khởi trong sự thay đổi chính sách của Hoa Kỳ, chứng tỏ rằng Việt
Nam từng trăn trở tìm đường thoát hiểm khỏi nanh vuốt của Trung Quốc. Và đến
thời điểm này là thời điểm thuận lợi nhất vì có thêm một đồng minh Hoa Kỳ, mặc
dù Hoa Kỳ hành động vì quyền lợi của Hoa Kỳ. Nhưng khi hai bên có những quyền lợi
như nhau thì có thể hợp tác và thỏa thuận với nhau trong các công việc chung.
Thanh Quang: Trở lại chính sách
ba không mà Việt Nam cam kết với Bắc Kinh, gồm (1) không tham gia các liên minh
quân sự hoặc là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, (2) không cho bất kỳ
nước nào đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam, và (3) không dự vào nước này để chống
nước kia.
Theo ông, chính sách quốc phòng “ba không” đó liệu
có gây trở ngại cho sự hợp tác quân sự Việt - Mỹ không, và có mở đường cho Bắc
Kinh dễ lấn chiếm Việt Nam hơn hay không?
Trần Bình Nam: Tôi không nghĩ
như vậy. Chúng ta nên nhớ rằng trong thời gian Chiến Tranh Lạnh, các quốc gia
trên thế giới, nhất là các nước nhỏ phải sắp hàng dưới hai chiếc dù, hoặc là
chiếc dù Liên Bang Xô Viết, hoặc là chiếc dù Hoa Kỳ, vì vậy cho nên trong thời
gian đó liên minh quân sự là chuyện thông thường, Nhưng 20 năm qua, sau khi
Chiến Tranh Lạnh chấm dứt chúng ta thấy vấn đề liên minh quân sự rất ít được
đặt ra vì không có nhu cầu đó. Trong bối cảnh đó chính sách “ba không” của Việt
Nam hoàn toàn không có tính chất gì chống Hoa Kỳ cả. Nó chỉ là một chính sách
thực tế, phù hợp với thực trạng thế giới hôm nay mà thôi.
Chính sách "ba không" đó theo tôi nhận xét
là một chính sách cân đối, khôn ngoan, phù hợp với thế đứng và quyền lợi của
Việt Nam hiện nay. Việt Nam không cần phải chính thức liên minh quân sự với Hoa
Kỳ mới được bảo vệ. Nếu bị Trung Quốc tấn công một cách vô cớ thì Hoa Kỳ và thế
giới với lời yêu cầu chính thức của Việt Nam vẫn có thể đến giúp đỡ như thường.
Và chúng ta nên để ý cách phát biểu của ông Nguyễn
Chí Vịnh khi ông nói về chính sách "ba không" . Ông Vịnh đã nói như
thế này: "Về phần Việt Nam, chúng
tôi sẽ không bao giờ trở thành đồng minh quân sự của Mỹ", nhưng ngay
sau đó ông nhấn mạnh rằng "không chỉ
với Mỹ mà Việt Nam sẽ không trở thành đồng minh quân sự với bất kỳ quốc gia nào",
thì rõ ràng ý của ông Nguyễn Chí Vịnh là chính sách "ba không" là không với cả Hoa Kỳ và Trung Quốc, và
do đó chính sách này không thể được xem là chính sách chống Hoa Kỳ mà cũng
không nên xem đây là chính sách thân Trung Quốc.
Chính sách "ba không" sẽ không gây trở
ngại cho các chương trình trao đổi quân sự hiện có giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, và
cũng không tạo thêm điều kiện nào dễ dãi để cho Bắc Kinh lấn chiếm Việt Nam cả.
Thanh Quang: Và sau cùng, thưa
ông, khi lên tiếng với Đài Tiếng Nói Việt Nam thường trú tại Bắc Kinh thì Tướng
Nguyễn Chí Vịnh có nói rằng Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có
quan hệ đại cục tốt đẹp cho nên trước sự phát triển của Trung Quốc, trong đó có
phát triển quốc phòng, Việt Nam ủng hộ và vui mừng, sự ủng hộ ấy phát xuất từ
mong muốn và niềm tin rằng Trung Quốc sẽ không sử dụng sức mạnh của mình để làm
phương hại tới chủ quyền và lợi ích của các nước khác, và cũng không sử dụng
sức mạnh ấy làm phương hại tới hòa bình và ổn định của khu vực và thế giới. Thưa
ông, liệu sự mong muốn và niềm tin như vậy của Tướng Nguyễn Chí Vịnh có mâu
thuẫn với thực tại là Trung Quốc đã và đang gây phương hại tới chủ quyền và lợi
ích của Việt Nam và sẵn sàng xử dụng sức mạnh khiến đe dọa tới hòa bình và ổn
định trong khu vực và trên thế giới không ạ?
Trần Bình Nam: Vâng, tôi nghĩ
lời ông Nguyễn Chí Vịnh dùng là "mong muốn và tin tưởng" một nước lân
bang có nền quốc phòng vững mạnh để bảo vệ hòa bình, thì đó là ngôn ngữ ngoại
giao thông thường thôi, không có tính cách gì gọi là xu phụ hay là làm yếu kém
tư thế của Việt Nam. Hơn nữa, khi nói về sức mạnh quốc phòng của Trung Quốc có
thể đóng góp cho những công việc hữu ích của thế giới thì ông Vịnh nói rằng ông
mong muốn Trung Quốc sẽ dùng sức mạnh quốc phòng này để tham gia tích cực vào
các việc cứu hộ, cứu nạn, cứu trợ thảm họa.
Ông Vịnh nghĩ
rằng đó quả thực là một điều tốt cho cả Trung Quốc lẫn khu vực. Việc dùng sức
mạnh quốc phòng như vậy thật sự hữu ích cho hòa bình thế giới và ổn định khu
vực, như chúng ta nhớ Hoa Kỳ đã từng làm, đặc biệt trong vụ sóng thần tsunami
đánh vào Indonessia và Thái Lan cách đây vài năm. Hoa Kỳ đã triển khai quân đội
để tiếp tế lương thực, thuốc men, mùng mền cho các nạn nhân ở đó.
Và Việt Nam,
theo cách phát biểu của ông Nguyễn Chí Vịnh, chỉ mong muốnTrung Quốc sử dụng
sức mạnh quốc phòng như vậy mà thôi.
Nhân đây tôi
cũng muốn nói rộng một điều là trong câu trả lời của ông Nguyễn Chí Vịnh ông
dùng từ là "phát triển quốc phòng
của Trung Quốc" và "quan hệ
quốc phòng giữa Việt Nam và Trung Quốc", nhưng rất tiếc trong bản tin
sớm nhất bằng Anh Ngữ của Tân Hoa Xã phổ biến ngay trong ngày hôm đó, ngày họp
báo, tức ngày 25 tháng 8, thì Tân Hoa Xã đã cố tình viết chệch ra là "phát triển quân sự" và làm cho dư
luận thế giới hiểu lầm quan điểm của Việt Nam.
Trong ngôn ngữ
ngoại giao thì "phát triển quốc phòng" và "phát triển quân
sự" có ý nghĩa khác nhau. Phát triển quốc phòng có thể bao gồm các lãnh
vực ngoại giao, kinh tế, quân sự và nó có tính tự vệ, trong khi phát triển quân
sự có tính “phóng tầm sức mạnh” ra
ngoài và đe dọa lân bang.
Qua sự cầm nhầm
chữ này trong bản tin Anh Ngữ của Tân Hoa Xã rõ là Trung Quốc cố ý nhập nhằng
để cho thế giới thấy Việt Nam chỉ "ba không" với Hoa Kỳ nhưng lại ủng
hộ sự phát triển sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Tôi nghĩ đây là một sự cầm
nhầm cần phải được đính chính.
Thanh Quang: Xin cảm ơn nhà bình
luận Trần Bình Nam