Chuyện một người chiến
binh
trong cuộc chiến Bắc Nam
(nhân đánh dấu 35 năm ngày 30-4-1975)
Trần
Bình Nam
Tôi
có một người bạn tù hồi năm 1975 khi tôi bị giam tại trại Lam Sơn. Trại Lam Sơn
là một Trung tâm Huấn luyện của quân đội VNCH tại Dục Mỹ, quận Ninh Hòa, được
bộ đội miền Bắc chiến thắng trong cuộc chiến tranh Bắc Nam 1955-1975 tạm thiết
lập làm trại tù.
Anh
tên là Nguyễn Văn Sơn, nguyên thiếu tá lực lượng Lôi Hổ. Thời gian anh Sơn và
tôi ở tù chung một trại không dài nhưng anh đã để lại cho tôi một ấn tượng khó
quên. Một mẫu người có phong cách kỳ lạ.
Hình
ảnh và tiếng kêu của anh Sơn vẫn còn văng vẵng bên tai tôi suốt 35 năm qua sau
ngày chúng tôi chia tay nhau.
Anh
được chuyển ra khỏi trại Lam Sơn để bước vào vòng thứ nhì của hệ thống địa ngục
lao tù cộng sản. Khi chiếc xe GMC chở tù chuyển trại chạy qua khu trại tôi vào
một ngày nóng bức cuối tháng 7 năm 1975 anh Sơn kêu to để báo cho tôi biết anh
rời trại. Tôi chỉ kịp nhìn thấy chiếc xe tù chạy qua, cánh tay anh Sơn đưa cao
vẫy. Tôi vẫy lại. Rồi biệt vô âm tín.
Thế
mà đã ba mươi lăm năm!
Cuối
tháng 3 năm 1975 sau khi bộ đội cộng sản vào thành phố Nha Trang tôi bị kẹt
lại. Tháng 6 đang đêm công an đến nhà bắt tôi về tội không ra trình diện.
Thật
ra tôi có trình diện, nhưng trễ. Biết mình đã nằm trong rọ, tôi cẩn thận theo
dõi các thông cáo của Ủy ban quân quản (cơ cấu chính quyền mới ngay sau khi
chiếm thị xã Nha Trang) về việc trình diện. Lúc đó tôi là dân biểu thị xã Nha
Trang. Gốc sĩ quan Hải quân, nhưng tôi đã giải ngũ từ năm 1971 và không có chân
trong bất cứ một đảng chính trị nào tôi đặt mình vào diện “dân cử” và chờ gọi
dân cử ra trình diện để thi hành. Không thấy có thông cáo nào gọi dân cử, tôi
nằm nhà chờ. Tuy nhiên vì thận trọng, một thời gian sau tôi ra phường Lộc Thọ trình
diện. Lấy cớ không ra trình diện công an thị xã ra lệnh bắt.
Đang
đêm đại úy công an Nguyễn Văn Linh (trùng tên với ông Tổng bí thư đảng cộng sản
sau 1986) trưởng ty công an Nha Trang dùng xe Jeep dẫn một đoàn du kích đến bắt tôi. Khi đại úy
Linh giải thích lý do, tôi trình giấy trình diện. Đại úy Linh hơi lúng túng.
Nhưng đoán biết công an đã quyết định bắt tôi, trình diện hay không chỉ là cái
cớ, tôi nói sẵn sàng về đồn để cơ quan an ninh làm những thủ tục cần thiết. Cảm
thấy thoải mái đại úy Linh bảo tôi mang đồ dùng cá nhân lên xe công an đậu chờ
xế cổng nhà. Tôi ngồi băng sau không bị còng tay, bên cạnh là một anh công an
mang súng dài. Đại úy Linh ngồi băng trước, súng lục ngang hông với tài xế.
Đoàn du kích bao vây quanh nhà tản mác vào đêm tối .
Công
an đưa tôi về ty công an thị xã Nha Trang đóng nơi nhà ông giám đốc chi nhánh
Nha Trang của Ngân hàng Việt Nam Thương Tín nằm trên đường Duy Tân chạy dọc
theo bờ biển Nha Trang. Từ đó công an chuyển tôi lên trại Lam Sơn. Tại đây tôi
ở chung trong một trại nhỏ, giống như một căn nhà với Thiếu Tá Nguyễn Văn Sơn. Trong tổng trại Lam Sơn có
hằng mấy trăm căn nhà như vậy.
Từ
trại Lam Sơn đang đêm tôi cùng một số tù nhân khác được chuyển về nhà tù Chợ
Đầm của tỉnh Khánh Hòa. Sau vài tuần lễ được chuyển về giam tại trại giam tù
chính trị cũ (của VNCH) xây phía sau Trung Tâm Huấn Luyện Công chức, cũng nằm
trên đường Duy Tân. Hai ngày đầu tôi bị
nhốt vào xà lim trước khi chuyển qua nhốt chung với hơn 80 anh em tù nhân trong
một căn phòng chỉ có khả năng chứa khoảng 30 người nằm ngồi. Tại đây tôi gặp
ông Khác Chánh Văn Phòng của đại tá Lý Bá Phẩm, tỉnh trưởng Khánh Hòa kiêm thị
trưởng thị xã Nha Trang và ông Nghi, trưởng ty hành chánh Thị Xã Nha Trang. Qua
hai ông Khác và Nghi tôi được biết đại tá Phẩm cũng đang bị giam riêng trong
trại để điều tra cùng với Thiếu Tá bác sĩ Dù Trần Đoàn.
Từ
trung tâm này tôi được chuyển lên trại Đồng Găng trong rừng sâu của tỉnh Khánh
Hòa. Tôi được trả tự do từ trại Đồng Găng.
Trở
lại chuyện Thiếu Tá Sơn. Tôi không quen biết Thiếu Tá Sơn trước khi đến trại
Lam Sơn. Chúng tôi chỉ ở chung nhà với nhau vài tuần lễ trước khi tôi được chuyển qua nhà khác và sau đó Sơn được
chuyển ra khỏi trại Lam Sơn .
Chỉ
mấy tuần thôi, chúng tôi quen nhau, thân nhau, tin cậy nhau. Câu chuyện tôi
thuật lại ở đây hoặc do Thiếu Tá Sơn kể lại hoặc xẩy ra trong mấy tuần lễ ngắn
ngủi đó.
Trước
ngày 31/3/1975 (ngày quân đội cộng sản chiếm tỉnh Khánh Hòa) trại Lam sơn là
một Trung Tâm Huấn Luyện cấp sư đoàn của quân đoàn 2 có khả chứa hàng ngàn tân binh hoặc binh sĩ về tái huấn luyện. Các binh
sĩ này tạm trú trong những mái nhà tranh đơn sơ dựng cạnh nhau có phên che gió
và giường ngủ chồng lên nhau. Lực lượng
cộng sản quản lý trại dùng các căn nhà này sau khi đã tháo phên che và
giường chồng bên trong (để dễ kiểm sóat) gọi là “Nhà”, Nhà số 1, Nhà số 2 v.v…
để cho các cựu sĩ quan và công chức miền Nam vừa bại trận trú ngụ trong thời
gian học tập. Sĩ quan ở riêng. Công chức ở riêng.
Nhà
số 10 dành cho một trung đội Dù bị bắt tại đèo Phượng Hoàng thuộc quận Khánh
Dương trên quốc lộ nối liền Ban Mê Thuột với Nha Trang qua quận lỵ Ninh Hòa.
Đặc biệt nhà số 10 sĩ quan ít mà nhiều lính Dù. Trung đội Dù này đã quần thảo
với quân chính quy Bắc Việt trên đèo Phượng Hoàng cho đến phút chót. Trong nhà
10 chỉ có một Trung úy và một Thiếu úy Dù, còn lại là hạ sĩ quan và binh sĩ, và
một sĩ quan Lôi Hổ: Thiếu Tá Nguyễn Văn Sơn.
Tôi
bị bắt trễ nên khi lên Lam Sơn các dãy nhà đều đầy người, họ nhét tôi vào nhà
10. Tôi nhận thấy hai người sĩ quan Dù rất bình thản và các người lính Dù có vẻ
thoải mái như đang được nghỉ ngơi sau các cuộc hành quân. Họ giúp các sĩ quan
đào giếng lấy nước, trồng cà chua, ớt, bầu bí v.v… nơi đám đất bỏ hoang trước nhà. Thiếu Tá Sơn suốt ngày hút
thuốc và kể chuyện tiếu lâm.
Thời
biểu chính của tù nhân là hằng ngày lên lớp nghe cán bộ giảng 9 bài căn bản.
Tôi còn nhớ một số đề tài như “Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”, “Chiến
tranh giới hạn” … và học những bài hát
“cách mạng” như “Tiếng chày trên sóc Mambo”, “Trường Sơn Đông, Trường
Sơn Tây”, “Giải Phóng Miền Nam”, “Chiến thắng Điện Biên”…
Tôi
không hiểu làm sao và lúc nào tôi và Thiếu Tá Sơn trở nên thân nhau. Hình như
Lôi Hổ và Dù không có gạch nối nên hai sĩ quan Dù ít nói chuyện với Thiếu Tá
Sơn. Lính Dù thì vẫn giữ khoảng cách với sĩ quan. Có lẽ còn do tính tình. Hai
sĩ quan Dù ít nói, trong khi Thiếu Tá Sơn sống để ruột ngoài da. Anh Sơn không
quan tâm đến hoàn cảnh. Ông vui sống trong cảnh tù tội và sằn sàng đón chờ mọi
chuyện.
Thời
gian đó không khí trong trại Lam Sơn còn rất dễ chịu. Người cộng sản có sách vở
để xử lý phe địch. Họ áp dụng phương pháp “bảy tầng địa ngục”. Họ không đưa
người tù vào ngay tầng dịa ngục cuối cùng. Họ đưa vào tầng nhẹ nhàng nhất ở
ngoài và dần dần đưa người tù vào các tầng bên trong khắc nghiệt hơn từng bậc
để người tù thích ứng dần và mất ý chí phản kháng.
Trại
Lam Sơn, nơi tù nhân học 9 bài căn bản
là vòng đầu của địa ngục. Sau giờ lên lớp tù nhân trở về nhà giam tự do thoải
mái trò chuyện với nhau, nấu nướng linh tinh gì cũng được, có thể đi thăm bạn
tù ở các nhà khác và chỉ phải tôn trọng giờ đi ngủ và giờ thức dậy. Trước cỗng
trại Lam Sơn ban quản trại cho họp chợ bán thức ăn và mọi thứ cần dùng cho tù
nhân. Vợ con tù nhân đến thăm bao nhiêu lần một tuần cũng được và tù nhân có
tiền (lúc đó tiền VNCH vẫn còn lưu dụng) có thể tiêu xài thoải mái.
Học
xong 9 bài là thời kỳ 2 tuần lễ để viết
bản “thu hoạch”, nghĩa là mỗi tù nhân viết bản khai lý lịch, khai báo quá trình
làm việc và mọi tư tưởng riêng tư. Trong thời kỳ này ban quản trại mỗi ngày tập
họp tù nhân toàn trại một lần động viên tù nhân “thành thật khai báo” để được
khoan hồng về với gia đình. Ban quản trại phỉnh các tù nhân rằng họ có hồ sơ
từng người không cần khai báo họ cũng đã biết. Thu hoạch chỉ là để đo sự tin
tưởng của tù nhân vào “cách mạng”. Thời kỳ khai báo họ để cho tù nhân nhiều tự
do hơn và đa số tù nhân tưởng rằng (trừ các sĩ quan và viên chức ở trong ngành
an ninh tình báo) sau khi viết xong bản thu hoạch họ sẽ được trả tự do. Tâm lý
này làm đa số tù nhân viết rất thật, không dấu diếm ngay cả những gì nghĩ là
sai trái mình đã làm, cũng như các công tác quan trọng mình đã thi hành. An
ninh cộng sản chỉ cần có thế để phân loại tù nhân đưa vào những tầng trong
thích hợp cho từng đối tượng của bảy tầng địa ngục.
Bản
thu hoạch của tôi tương đối đơn gỉản nên chỉ cần vài hôm là tôi viết xong. Tôi
ở trong quân ngũ 16 năm. Hai năm tại
trường đào tạo kỹ sư hải quân của hải quân Pháp, một năm phục vụ trên chiến hạm
như một cơ khí trưởng và 13 năm tại Trường Sĩ Quan Hải quân Nha Trang như một
huấn luyên viên và sĩ quan điều hành công tác đào tạo sĩ quan hải quân, trước
khi đắc cử dân biểu thị xã Nha Trang và giải ngũ. Thời gian trên chiếm hạm,
chiến tranh bắc nam chưa bùng nổ lớn nên chiến hạm của tôi chỉ đi làm các công
tác tiếp tế nhỏ. Một chuyến đi tiếp tế địa phương quân canh gát đài khí tượng
trên đảo Hoàng Sa, một chuyến tiếp tế cho trại tù Côn Sơn.
Thiếu
Tá Sơn cũng không viết gì nhiều. Tôi hỏi, Sơn nói: “Họ nói họ đã biết hết rồi
thì còn gì để viết. Tôi viết ngắn gọn rằng tôi là sĩ quan Lôi Hổ, một đội quân
được huấn luyện để làm các công tác đột kích vào mật khu Việt cộng, và tôi đã
từng giết nhiều cán bộ cao cấp trong các cuộc đột kích. Tôi sẵn sàng trả giá
của người chiến bại theo tinh thần thượng võ, không có gì để nói chuyện khoan
hồng khai báo lôi thôi.”
Cung
cách của Thiếu Tá Sơn là vậy. Hiên ngang như đời sống phóng khoáng của anh. Anh
kể rằng anh thuộc một gia đình công giáo sung túc. Bố mẹ muốn anh trở thành
linh mục. Anh đã vào đại chủng viện, nhưng chịu không nổi khuôn phép của Giáo
Hội để trở thành linh mục, anh rời chủng viện bất chấp sự bất mãn của bố mẹ.
Tránh phiền toái và trách móc của gia đình anh thi vào trường sĩ quan bộ binh Đà
Lạt. Ra trường anh chọn binh chủng Lôi Hổ để thỏa chí phiêu lưu.
Thiếu
Tá Sơn cho biết anh có vợ và 2 con. Chuyện lấy vợ của anh ly kỳ không kém đời
anh. Nó là một tình sử của thời chiến tranh. Trách Sơn cũng được mà thông cảm
Sơn cũng được.
Chuyện
Sơn kể rằng: Sau những ngày đánh trận anh thường lang thang nơi thành phố Nha
Trang. Một nữ sinh ở Xóm Bóng lọt vào mắt xanh của anh. Hai người tha thiết yêu
nhau và anh quyết định cưới người yêu.
Bố
mẹ cô nữ sinh không thuận cuộc hôn nhân vì không muốn con gái ở góa trong thời
chinh chiến. Lý do khác là khác biệt tôn giáo. Sơn đến nhà cô gái cho bố mẹ cô
gái biết anh không có thì giờ chờ đợi và anh không buộc vợ rữa tội theo đạo
Chúa. Anh nói anh đã sắp xếp với nhà thờ và trong vài hôm sẽ mang sính lễ tới xin
cưới trước khi đi hành quân. Anh đã thuê một căn nhà trong thành phố cho vợ ở
khi anh vắng nhà.
Ngày
hẹn, anh đến nhà cô gái với sính lễ đầy đủ trên hai chiếc xe Jeep. Anh dùng một xe có tài xế. Xe thứ hai dành cho hai sĩ quan bạn và mấy quân nhân
Lôi Hổ tháp tùng. Một đại úy đóng vai đại diện nhà trai làm chủ hôn. Một trung
úy đóng vai phụ rễ. Anh Sơn mặc đại lễ trung úy Lôi Hổ, lưng đeo súng ngắn,
ngực đầy huy chương.
Biết
bố mẹ vợ tương lai sẽ từ chối cuộc rước dâu, anh cho quân nhân mang sính lễ vào
nhà như không có chuyện gì sẽ xẩy ra. Anh Sơn và hai sĩ quan bạn theo sau.
Thấy quân nhân trang trọng vào nhà, bố
mẹ cô dâu buộc phải ra tiếp (thời chiến tranh, không ai muốn cưỡng lại nhà
binh!). Ông bố bình tỉnh hỏi quý vị đến nhà có việc gì. Ông đại úy chủ hôn
trình bày lý do. Ông bố tuyên bố ông chưa bao giờ chấp thuận hôn lễ. Đã tính
trước, ông đại úy xin được mời cô dâu ra để hỏi ý kiến. Từ trong phòng cô dâu
trang phục sẵn sàng bước ra trước sự ngạc nhiên của bố mẹ.
Ông
đại úy chủ hôn hỏi, và cô dâu xác nhận biết hôm nay là ngày hôn lễ của cô với
trung úy Nguyễn Văn Sơn. Bố mẹ cô dâu nén giận nhưng đành phải để cho con lên
xe hoa. Trung úy Sơn giành tay lái, người yêu khóc sướt mướt ngồi bên cạnh.
Khóc vì lấy được người yêu hay khóc vì đã làm buồn lòng cha mẹ? Ghế sau hai
quân nhân bồng súng ngồi ở thế tác chiến. Sĩ quan chủ hôn và phù rễ lái theo
sau. Đám cưới không có phù dâu.
Sau
lễ cưới độc đáo của thời chiến tranh, trung úy Sơn chiến trận liên miên. Chị
Sơn ở nhà lo tổ ấm. Sau vài năm anh chị Sơn có được hai cháu, một trai một gái
kháu khỉnh. Thấy con gái có hạnh phúc với tình yêu chân thật bố mẹ chị Sơn tha
lỗi cho con gái, nhận rễ và cho phép con gái và cháu ngoại về ở chung để con
gái tránh đơn độc trong những lúc anh Sơn hành quân vắng nhà.
Biến
cố tháng Tư đến và trung úy Sơn, lúc này là thiếu tá bị bắt tại mặt trận và đưa
vào trại Lam Sơn. Câu chuyện giữa anh Sơn và tôi bắt đầu từ đó.
Cán
bộ hướng dẫn nhà 10 của chúng tôi là một hạ sĩ quan quê Bắc Ninh. Anh ta hiền
lành và không hống hách như các cán bộ khác. Anh thuộc một đơn vị chính quy
quân đội Bắc Việt từng tham dự trận đánh An Lộc trong những ngày đầu của trận
chiến sau cùng. Mỗi ngày anh đến nhà chúng tôi làm nhiệm vụ hướng dẫn và thường
ngồi xổm trên đất, tay vấn thuốc lá phì phèo hút và kể đủ thứ chuyện về “ngoài
Bắc ta” và chuyện chiến trận anh đã trải qua. Anh không tô điểm đời sống “ngoài
Bắc ta cái gì cũng có” như các cán bộ khác và kể lại các trận đánh anh không
theo luận điệu của trại là “trận nào quân ta cũng thắng”. Chúng tôi trong nhà
10 có nhiều thiện cảm với anh, và trở nên bạo dạn trong những trao đổi với anh.
Một
hôm tôi ngồi cạnh Thiếu Tá Sơn nghe anh nói chuyện với anh trung sĩ cán bộ.
Thuật lại một trận đánh để giành một vị trí gần Lộc Ninh, viên trung sĩ nói đơn
vị anh, mặc dù với quân số áp đảo, đã gặp sự kháng cự mãnh liệt của một đơn vi
quân đội VNCH cho nên dù chấp nhận mọi tổn thất nhân mạng đơn vị anh vẫn không
chiếm được vị trí. Thiếu Tá Sơn cho biết tiểu đoàn của anh đã được phái đến
tăng cường trong trận đánh đó. Sơn nói:
“Đánh
đấm với các anh chán bỏ mẹ. Quân lính các anh cỡ tuổi 14 hay 15, trông như con
nít, không biết gì khác ngoài việc xông tới, hết lớp này đến lớp khác. Chúng
tôi bắn chết, thây chồng chất lên nhau trông vừa thương tâm vừa kinh tởm và có
lúc tôi đã ra lệnh cho lính tạm ngừng bắn dù biết chậm một giây là đơn vị có
thể bị tràn ngập”
Viên
trung sĩ cán bộ nghe và không trả lời. Anh ta chỉ cười nho nhỏ. Vẫn giữ thế
ngồi xổm anh xê dịch kiếm lửa châm điếu thuốc đang hút dở vừa tắt. Hình như anh
ta chán nản một điều gì.
Chiều
hôm đó tôi nói với Sơn: “Chúng ta là kẻ chiến bại. Những gì anh nói với viên
trung sĩ cán bộ có thể được báo cáo và người
cộng sản có thể thủ tiêu anh. Khích hay làm nhục kẻ chiến thắng không
phải là một cách hành xử khôn ngoan.”
Sơn
cười chua chát: “Tôi biết họ và họ biết rõ tôi. Trước sau họ cũng sẽ giết tôi.
Tôi nói để họ biết người chiến sĩ VNCH không hèn nhát. Thua, tôi chấp nhận mọi
hậu quả, không than van, không than trời trách đất, không đổ thừa cho đồng minh
bỏ chạy.”
Thiếu
Tá Sơn rất ít nói đến gia đình dù tôi biết anh nghĩ tới và âu lo từng phút từng
giây. Có lẽ anh đang dọn mình cho đời sống ở một thế giới khác cùng với người
vợ và cũng là người tình duy nhất của anh. Trong khi thân nhân của các sĩ quan
và công chức bị bắt tại Nha Trang và các vùng lân cận đến thăm thì không một
thân nhân nào của anh Sơn đến thăm anh. Tôi hỏi, anh Sơn nói anh không biết và
cũng không muốn đoán biết. Anh nói anh
xem như đời anh đã chấm dứt sau khi đơn vị anh đầu hàng và anh không thể tự vận
vì anh là một tín đồ theo đạo Chúa.
Một
thời gian vài tuần sau khi mọi tù nhân viết xong bản “kiểm điểm ” nộp ban quản
trại, tôi được chuyển sang một nhà khác giam chung với các công chức trong thị
xã . Họ đã xếp loại và cho tôi vào thành phần “ngụy quyền”.
Bây
giờ không còn chợ trời trước cổng trại Lam Sơn, không còn những buổi thăm viếng tự do. Nhân một tù nhân
lợi dụng giờ ra chợ trốn trại về Nha Trang bị bắt lại, ban quản trại không cho
họp chợ nữa. Nhưng bên trong trại các tù nhân vẫn còn được đi lại từ nhà này
qua nhà khác thăm viếng hàn huyên. Tôi vẫn thường đến thăm Thiếu Tá Sơn vào
những buổi chiều trước giờ cơm chiều. Cơm còn đủ để ăn no với cá vụn và canh
rau.
Một
buổi chiều đang ngồi trong trại, cạnh con đường đất dùng để xe tuần chạy quanh
các khu nhà, tôi nghe tiếng kêu từ một chiếc xe GMC chạy qua nhà tôi: “Anh Sơn
ơi, tôi đi đây, vĩnh biệt anh.” Nhìn nhanh ra đường tôi thấy một chiếc xe GMC
mui trần chở đầy tù nhân chạy qua. Một người lính cầm súng đứng gát phía sau.
Thấp thoáng tôi thấy bóng dáng Sơn đưa tay vẫy, miệng không ngừng kêu “Anh Sơn!
Vĩnh biệt anh!”
Đó
là hình ảnh cuối cùng của Sơn đối với tôi. Tôi nghĩ Sơn đã bị chuyển ra khỏi
trại Lam Sơn.
Nhưng
sau khi ra trại tôi nghe phong thanh anh Sơn chưa bị chuyển khỏi Lam Sơn. Anh
được chuyển qua một trại khác trong khu Lam Sơn. Có tin đồn rằng anh Sơn tổ
chức vượt ngục cùng với vài bạn tù khác nhưng bất thành, một vài bạn tù bị bắn
chết, anh Sơn bị bắt lại.
Mấy
năm sau tôi vượt biên, và trong suốt hơn 30 năm ở nước ngoài tôi vẫn ngóng trông tin Sơn. Tôi
không nghĩ anh Sơn đã bị giết hay chết trong một trại tù nào đó ngoài miền Bắc.
Một người giàu ý chí như Thiếu Tá Sơn không thể chết dễ dàng như vậy. Tôi tin
anh vẫn sống và đã ổn định tại một góc trời nào đó trên trái đất này. Nhiều sĩ
quan rơi vào những trường hợp nghiêm trọng hơn anh đã được ra nước ngoài theo
diện HO.
Hy
vọng lớn nhất của tôi là đoản văn này lọt vào mắt anh Sơn hay bạn bè anh trong
quân ngũ và ngoài đời sống dân sự. Xin nhắn với Thiếu Tá Sơn rằng người bạn tù
những ngày ngắn ngủi của anh tại “nhà 10” trại Lam Sơn vẫn còn đây và chờ nghe
tin lành của anh và gia đình. E-mail liên lạc: binhnam@sbcglobal.net./.
Trần Bình Nam
April 15, 2010