Nhìn vào chế độ Cộng sản Việt Nam
(qua hồi ký của một cán bộ trung kiên)
Trần Bình Nam
Một cán bộ cộng
sản cao cấp, ông Nguyễn Thành Thơ vừa viết cuốn hồi ký “Cuối Đời Nhớ Lại” để đọc
giữa bạn bè và đồng chí của ông ở trong nước. Cuốn hồi ký này có thể cũng cùng
số phận với nhiều tác phẩm của các cựu cán bộ, đảng viên cộng sản khác, không
được phép in thành sách phổ biến rộng rãi mà chỉ được phép “photo copy” gởi
chuyền tay nhau một cách hạn chế.
Hồi Ký “Cuối Đời
Nhớ Lại” viết xong ngày 6 tháng 5 năm 2003, và ông Nguyễn Thành Thơ đã mang đến
dự tang lễ của một người cán bộ từng hoạt động với ông vừa quá cố và vái tặng
trước linh cửu bạn như một kỷ niệm để cùng nhớ lại một thời đã qua. Do một sự
tình cờ tôi đọc được tập hồi ký của ông Nguyễn Thành Thơ .
Trong tập Hồi ký ông Nguyễn Thành Thơ cho
biết tổ tiên ông sống tại Nghệ An vào thế kỷ 18. Ông tổ mấy đời trước đi lính
Tây Sơn phục vụ trong đoàn quân của bà Bùi Thị Xuân. Trong trận đánh cuối cùng
với vua Gia Long đầu năm 1802, quân Tây Sơn tan vỡ, bà Bùi Thị Xuân bị bắt (1),
ông chạy về quê bế một đứa con trai 10 tuổi xuống thuyền trốn vào Nam để tránh
việc trả thù của vua Gia Long. Ông không tục huyền, ở vậy nuôi con, và người
con đã tạo ra dòng họ “Nguyễn Thành” tại đồng bằng sông Cửu Long .
Ông Nguyễn Thành
Thơ sinh năm 1925 tại làng Vĩnh Xuân, huyện La ghì, tỉnh Vĩnh Long. Cha ông là
Nguyễn Ngươn Hanh sinh năm 1863, có nho học và làm nghề thuốc Bắc. Ông Hanh
tham gia phong trào chống Pháp từ khi Pháp vừa đặt xong nền đô hộ tại Việt Nam.
Năm 62 tuổi mới sinh ra ông Thơ với bà vợ
thứ hai Nguyễn Thị Phước. Ông Nguyễn Ngươn Hanh bị Pháp cầm tù và chết
tại Côn Đảo năm 1942 thọ 79 tuổi.
Tập hồi ký này
khác với các tập hồi ký khác ở chỗ, ông Nguyễn Thành Thơ tham gia cuộc tranh
đấu chống Pháp giành độc lập lúc mới 14 tuổi cùng với các sĩ phu yêu nước khác
trong đó có thân phụ ông. Trong quá trình tranh đấu, thân sinh ông tham gia
đảng cộng sản, nên ông cũng tham gia đảng cộng sản. Ông không tham gia Đảng
cộng sản vì mê thuyết Mác Xít. Ông chỉ muốn theo chân thân phụ chống Pháp. Ông
thoát ly gia đình trước cuộc cách mạng
1945 khi tuổi chưa đầy 20. Ông kinh qua cuộc đấu tranh chống Pháp cho đến khi ký
hiệp định Geneve (năm ông 29 tuổi) chia đôi đất nước. Ông được Đảng cộng sản bố
trí ở lại, không tập kết ra Bắc, và tiếp tục tham gia cuộc đấu tranh chính trị
và vũ trang chiếm miền Nam do Hà Nội chỉ đạo.
Ông Nguyễn Thành
Thơ đóng góp và chứng kiến cuộc đại thắng của Đảng cộng sản năm 1975, sau đó
trong đại hội 4 Đảng cộng sản
(1976) ông trở thành Ủy viên TW Đảng.
Ông có tất cả ưu thế và điều kiện để leo lên những chức vụ cao hơn trong Đảng
và trong guồng máy cầm quyền. Nhưng vốn là một người còn lương tri thấy những
đường lối sai lầm của Đảng mà việc trước mắt sau năm 1975 là quyết định xóa bỏ
nền kinh tế thị trường tại miền Nam Việt Nam và có đủ can đảm cùng với các cán
bộ gắn bó với miền Nam khác như Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng tỏ
ý bất đồng với chính sách này và ông bị loại ra khỏi TW Đảng kể từ đại hội 5
năm 1981. Ông từng chống lại chính sách kỳ thị đệ tam, đệ tứ, chính sách đối
đãi với đảng viên Đại Việt của những năm 1945 khi công cuộc chống Pháp bùng nỗ,
chống lại những sa đọa của cán bộ an ninh, chống chính sách đối với đồng bào
gốc Miên tại các tỉnh miền Nam.
Nhưng đó là những
chuyện nhỏ. Chuyện lớn là ông từng chống lại chính sách xóa bỏ nền kinh tế cá
thể tại miền Nam năm 1976 (tuy đồng ý về thống nhất chính trị Bắc Nam). Ông
chống chính sách hợp tác xã nông nghiệp mà ông biết sẽ làm cho nông dân mất
hứng thú sản xuất, và ông chống chính sách ngăn sông cách chợ mà ông biết sẽ
làm cho dân đói.
Tuy nhiên, nhờ
công lao và sự trung thành với Đảng ông Nguyễn Thành Thơ không bị loại ra khỏi
các chức vụ dưới cấp TW Đảng và ông đã tiếp tay với Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt và sự ủng hộ ngầm của
Trường Chinh thúc đẩy quyết định “đổi mới” kinh tế tại Đại hội 6 năm 1986. Tại
đại hội này Nguyễn Văn Linh đắc cử Tổng Bí thư thay thế Trường Chinh.
Ông Nguyễn Thành
Thơ nghỉ hưu năm 1992 lúc ông 67 tuổi. Ông được cấp 30 mẫu tây đất tại huyện
Tân Uyên tỉnh Bình Dương trồng cây ăn trái và lấy gỗ và nhờ đó có một đời sống
vật chất sung túc.
Ông không phải là
một người chống Đảng.
Nét đặc biệt của
ông Nguyễn Thành Thơ là ngay thẳng không biết xu nịnh, lại hay nói không thuận
chiều với những chính sách giáo điều của Đảng nên cấp trên không ưa ông. Họ
không cất nhắc ông lên các chức vụ then chốt của đảng nhưng không ghét ông vì
ông là một người trung thành, đơn giản và được sự kính mến che chở của bạn bè
trong Đảng bộ miền Nam và không đe dọa quyền lực một ai. Cán bộ cao cấp gốc
miền Nam đồng thời với ông như Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng rất quý nể ông vì
tính tình phóng khoáng hết lòng sống chết với bạn bè đồng chí. Ông Nguyễn Thành
Thơ là người dám làm những việc ngoài đường lối của đảng, nhưng luôn luôn chứng
tỏ mình là một đảng viên trung thành có thể chết vì đảng.
Kết thúc sự
nghiệp của ông không có gì để ca ngợi, ngoại trừ những dòng chữ trong tập hồi
ký “Cuối Đời Nhớ Lại” vô tình cho chúng ta thấy một số sự kiện có tính lịch sử.
Ông Nguyễn Thành Thơ từng giữ những chức vụ quan trọng, và từng có dịp tiếp xúc
với tất cả các lãnh tụ như Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp … nên những mẫu chuyện ông kể lại trong hồi ký hé mở cho chúng ta
thấy cá tính của những con người từng nắm vận mệnh nước Việt Nam và giúp chiếu
rọi ánh sáng vào những vấn đề lớn khác như Hà Nội nghĩ gì về Hiệp Định Geneve
năm 1954, cuộc tấn công của Bắc Kinh qua biên giới Việt Nam năm 1979 … Và từ đó
lý giải tại sao đất nước Việt Nam đang trải qua hoàn cảnh hôm nay.
Trong thời gian
ông lãnh nhiệm vụ lãnh đạo địch vận, ông từng là người chỉ huy tướng Dương Văn Nhựt được gởi từ miền Bắc
vào Nam để tiếp xúc với tướng Dương Văn Minh. Sự việc ông kể lại công tác này
(nếu ông Nguyễn Thành Thơ ghi lại chính xác) có thể giúp cho các nhà viết sử về
sau nghiên cứu một nghi vấn quan trọng.
Sau đây là vài
trích dẫn:
Lê Duẫn và hiệp
định Geneve: Năm
1954 hiệp định Geneve vừa ký xong đảng cộng sản gởi Lê Duẫn vào Nam để lãnh đạo
đảng bộ miền Nam chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử hay cuộc nổi dậy. Ông Nguyễn
Thành Thơ ghi lại buổi học tập do Lê Duẫn chủ tọa:
“Học
lớp chính trị do anh Lê Duẫn giảng “Hiệp định Geneve và đấu tranh thi hành hiệp
định Geneve” trong đó có những ý quan trọng như: Ta không tán thành ký kết Hiệp định Geneve, do Trung quốc,
Liên xô ép. Mỹ sẽ trở thành kẻ xâm lược chính. Đảng bí mật, tổ chức quần chúng bán
công khai và công khai. Cảnh giác chiến
tranh, do đó phải giấu một số quân và vũ khí …” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 83)
Quản lý nhân sự
thoát ly: Nhân sự thoát
ly bị cắt dứt hoàn toàn với gia đình để tránh việc trốn về với gia đình sau khi
thấy được mặt thật của Đảng. Ai bỏ trốn sẽ bị bắn bỏ. Ông Nguyễn Thành Thơ
thuật lại chuyện một cán bộ văn nghệ nữ đã tự sát vì bị bao vây. Cô ta ắt là đã
gởi nhiều thư thăm hỏi gia đình không được cơ quan chuyển:
“Có
nữ đồng chí tên là Nhị Hà khỏang 30 tuổi, người Bến Tre, xinh đẹp, đi tập kết,
được đi học Liên xô về đạo diễn, về miền Tây là cán bộ đạo diễn ở cơ quan văn nghệ Khu. Dự họp, mặc quần áo bà ba
củn cởn của thiếu nữ càng thêm xinh đẹp, giờ giải lao lên ca hát phục vụ, được
cuộc họp vỗ tay nhiệt liệt tán thưởng. Một hôm khoảng 10 giờ đêm, có một cán bộ
đến báo, đêm vừa rồi cơ quan văn nghệ Khu có cuộc họp liên hoan, có một cán bộ
cởi nịt súng máng lên vách. Nhị Hà gỡ
lấy súng, lên đạn rồi nói ‘Xin từ giả anh chị em, tôi chết’ Các học trò
diễn viên khóc mướt, nói không ra lời, tất cả đều lấn vào tranh thủ giựt súng.
Nhị Hà chỉa súng vào màng tang nói ‘Các anh chị em ngồi yên để tôi sống thêm
một lúc nữa, còn tìm cách giựt súng tôi sẽ nổ súng chết ngay’. Anh chị em hỏi
‘Vì sao muốn chết’ Nhị Hà nói: ‘Tôi có chồng gởi thơ cho chồng không biết bao
nhiêu lần vẫn không thăm tôi, vẫn không thơ trả lời. Tôi còn mẹ, nhờ người đi
rước nhiều lần vẫn không gặp tôi … Trong hoàn cảnh cô đơn nhớ chồng con, cha mẹ
anh em không tả nổi, không có tương lai sum họp chỉ muốn chết thôi. Nếu anh chị
em thương tôi chôn tôi bên ngoài một góc nghĩa trang nào đó để tôi luôn gặp
người qua lại chào mừng, chung quanh mộ trồng bông mười giờ là loại hoa tôi ưa
thích nhất’. Nói xong bóp cò, súng rớt, đưa đi quân y, nửa đường tắt thở” (“Cuối Đời Nhớ
Lại” trang 119)
Về cải cách ruộng
đất: Cho đến nay người ta tưởng cuộc cải cách
ruộng đất giết chết phú nông và địa chủ chỉ diễn ra tại miền Bắc khoảng năm
1953, 1954 thôi. Sự thật những nhà lãnh đạo giáo điều của Đảng đã ra lệnh cải cách
ruộng đất tại miền Nam vào năm 1964, 1965 khi cộng sản đã kiểm soát được một
phần lớn đồng bằng sông Cửu Long theo mô thức đấu tố đã làm tại miền Bắc. Lệnh
này cho thấy cuộc cải cách ruộng đất tại miền Bắc giết oan biết bao nhiêu nông
dân, sau đó cải sửa, Hồ Chí Minh khóc nhận sai lầm chỉ là một màn kịch. Tuy
nhiên các cán bộ miền Nam thấy tình hình đất đai và quan hệ giữa địa chủ và
nông dân ở miền Nam không có gì giống với điều kiện ở miền Bắc như chỉ thị mô
tả và đã tỏ ý không hăng hái thi hành.
Ông Nguyễn Thành
Thơ thuật lại rằng, khoảng năm 1964 khi đang công tác tại đồng bằng sông Cửu
Long ông được gọi về trình diện Cục R (2). Tại R ông được lệnh về tổ chức “Phát động quần chúng
cải cách ruộng đất một cách toàn diện và triệt để”. Nghe giải thích cả ngày ông
vẫn không thông, và sau khi cho điều tra thực trạng ông không thấy có địa chủ
theo tiêu chuẩn ngoài Bắc hay tại Trung quốc, và cũng không có nông dân bị hiếp
đáp để đứng ra tố khổ như ngoài Bắc. Hỏi ý Nguyễn Chí Thanh lúc đó chỉ huy Cục
R, Nguyễn Chí Thanh cũng mù mờ không quyết, sau đó điện ra Bắc hỏi Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh bảo không làm được thì ngưng lại. (“Cuối Đời Nhớ
Lại” trang 120, 121).
Về chính sách
giết nhầm hơn bỏ sót: Ông
Nguyễn Thành Thơ kể rằng trong thời gian xâm lăng miền Nam, công an cộng sản
được lệnh “thà giết lầm hơn bỏ sót”. Ông viết:
“Ban
an ninh khu có trại giam kể là tử tội, ở xã thuộc huyện Thanh Tri – Sóc Trăng
có chỉ thị cho ban cai quản trại giam, khi địch đánh vào trại giam, phải xử tử
ngay không để dịch giải thoát”
(“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 122).
Ở một đoạn khác
ông Nguyễn Thành Thơ viết rằng khi ông mang vấn đề này ra kiểm điểm và hỏi chủ
trương như vậy có sai trái gì không thì một cán bộ an ninh tên là Ba Hương giải
thích:
“Xưa
nay làm công tác an ninh thường có quan điểm thà giết lầm chứ không thả lầm”
(“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 123)
Phê phán nội bộ
về tấn công Mậu Thân:
Cuộc tấn công Mậu Thân 1968 trên toàn quốc Đảng cộng sản xem như một thắng lợi
lớn, nhưng sự thật cuộc tổng tấn công đã thất bại khắp nơi, và tổn thất nhân
mạng về phía cộng sản rất nặng nề vì chiến thuật địa phương lủng củng thiếu
thống nhất. Thuật lại việc phê phán nội bộ sau trận Mậu Thân ông Nguyễn Thành
Thơ ghi nhận ba đợt tấn công theo chỉ thị của cục R đều thất bại. Phần ông bị
phê bình. Ông viết trong bản kiểm điểm:
“Tấn
công đợt 1, Khu ủy ai cũng nói “a thần phù” và vỗ đít, không chủ động. Đợt 2
trong tình hình địch cảnh giác phòng thủ chặt ta tấn công sẽ bị đỡ ngực nên nhiều đồng chí đều có ý kiến chuyển hướng
tấn công, chủ yếu vào nơi địch sơ hở và ta có chuẩn bị. Khuyết điểm tinh thần
tấn công của tôi theo chỉ đạo trên là bế tắc, không tìm được chỗ yếu của địch
và nghiên cứu cách tần công địch không đỡ được. Do tấn công vào điểm trong đợt
2 ta bị tiêu hao nhiều quá, ai cũng thắc mắc. Trong cuộc hội nghị Khu ủy thống
nhất củng cố ba thứ quân và chuyển hướng tấn công không đúng chỉ đạo bên trên.” (“Cuối Đời Nhớ Lại”, trang 136)
Vì những lẽ trên
ông Nguyễn Thành Thơ nói ông không thể làm theo chỉ thị vì sẽ có nhiều tổn
thất. Nhưng trong bản kiểm điểm ông nhận lỗi như cấp trên muốn. Ông viết:
“Trong
chấp hành chỉ đạo tấn công dứt điểm đô thị, tôi có khuyết điểm cầu an tiêu cực
tấn công, không dứt điểm được các mục tiêu đô thị ở Khu 3” (“Cuối Đời Nhớ Lại”, trang 136)
Địch vận tướng
Dương Văn Minh :
Một tiết lộ có giá trị lịch sử nhất là nỗ lực vận động (từ năm 1963 đến năm
1968) sự hợp tác của tướng Dương Văn Minh bất thành do chính ông Nguyễn Thành
Thơ thực hiện (thời gian 1968 làm Trưởng ban Binh vận R, một chức vụ chỉ giao
cho cấp Ủy viên TW đảng) theo lệnh của Phạm Hùng. Hà Nội đã đưa tướng Dương Văn
Nhựt (em của tướng Dương Văn Minh) từ miền Bắc vào tiếp xúc với Dương Văn Minh,
và tướng Dương Văn Minh đều thông báo cho tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn biết
nội dung các cuộc tiếp xúc này.
Năm 1968, sau
trận Mậu Thân và Hoa Kỳ đang xuống thang chiến tranh. Tại bộ chỉ huy Trung ương
cục R Phạm Hùng làm việc với Nguyễn Thành Thơ. Nguyễn Thành Thơ ghi:
“Anh
Phạm Hùng bàn ‘Mỹ xuống thang chiến tranh, nội bộ ngụy sẽ mâu thuẫn chia rẽ lật
đổ nhau, anh tổ chức tranh thủ Dương Văn Minh lợi dụng thời cơ để chiếm địa vị
trong ngụy quyền để thực hiện hòa hợp dân tộc, chấm dứt chiến tranh’. Trung
ương cục có điện kêu Dương Văn Nhựt (vốn là tướng trong hàng ngủ cộng sản, em
ruột tướng Dương Văn Minh) cộng tác với tôi thực hiện.”
“Dương
Văn Nhựt đến làm việc với tôi. Trước nhứt tôi hỏi Dương Văn Nhựt ‘quá trình qua
Dương Văn Minh đối với ta có biểu lộ cảm tình gì không’. Nhựt trình bày ‘Thời
Ngô Đình Điệm, Dương Văn Minh đảo chánh Diệm, đảng có kêu tôi gặp Minh, bảo với
Minh khi làm tổng thống thì bãi bỏ ấp chiến lược đi. Minh trả lời ‘sẽ bãi bỏ ấp
chiến lược nhưng chùa Phật, Thiên chúa được dựng lên theo gom dân lập ấp chiến
lược vẫn giữ. Khi ta tấn công Mậu Thân Đảng bảo tôi (Dương Văn Nhựt) đến gặp Minh.
Tôi đến nhà Minh, biết Minh đi Thụy Sĩ tôi lên ngay máy bay đi Thụy Sĩ, biết
Minh về Thái Lan, tôi theo về Thái Lan, gặp được Minh tôi nói: ‘Ông Nguyễn Hữu
Thọ mời Minh về tham gia Mặt Trận Giải Phóng và Chính Quyền liên hiệp’ Minh nói
: ‘không biết làm chính trị, việc đó dành cho ông Thọ’ . Tôi (Nguyễn Thành Thơ)
nói với Nhựt ‘Như vậy Minh là một nhân vật trung gian, có quan điểm trung gian,
theo địch vẫn có cảm tình với ta, vậy Nhựt đi làm việc với Minh là đi tranh thủ
Minh lợi dụng tình hình, để giành địa vị trong ngụy quyền, hiệp thương với ta
thực hiện hòa hợp’. Nhựt nói ‘Yêu cầu như thế ta tranh thủ hướng dẫn Minh giành
quyền rất dễ, tôi tin Minh sẽ hăng hái làm theo’
“Khi
Nhựt về báo cáo ‘Đến nhà Minh gặp mẹ tôi, mẹ tôi ôm tôi khóc, tôi cũng khóc,
thấy vợ chồng Minh rất xúc động. Vợ Minh lo ăn nghỉ cho tôi rất chu đáo, con
Minh vui mừng vì có người chú trong hàng ngũ cách mang. Tiếp theo, khi nào Minh
rãnh rỗi, tôi nói chuyện với Minh nhiều chủ đề để xiết vô chủ đề tranh thủ
Minh, nói hướng dẫn của ta thêm thuận lợi. Minh chỉ hỏi để hiểu rõ thêm ý của
ta, không thấy phản ứng gì’.
“Đến
ngày chót Minh tổ chức chiếu bóng cho gia đình xem. Minh ngồi trên xe, tôi ngồi
một bên, một người Mỹ ngồi một bên, người Mỹ luôn lén nhìn tôi. Sau đó Minh cho
xe đưa tôi về Tây Ninh. Theo tôi (Dương Văn Nhựt) nhận xét, Minh ngồi gữa coi
chiếu bóng, có một người Mỹ ở bên, để ngầm cho tôi biết, Minh giành chức vụ
trong chính quyền ngụy để thương lượng với ta được một trường phái Mỹ ủng hộ .
“Tôi
(Nguyễn Thành Thơ) báo cáo anh Phạm Hùng …, anh Phạm Hùng nói đại ý: ‘Ta đoán
Mỹ sẽ xuống thang chiến tranh, ta hoạt động mạnh, ngụy suy yếu sẽ đẻ ra lủng
củng. Minh nghe lời ta có thể đạt được mong muốn. Kể từ nay cắt đứt liên lạc để
tránh lộ liễu, chuyện có quá trình, có đi sẽ đến. Trả Dương Văn Nhựt về Bắc”
“Cuộc
vận động theo Nhựt nói lại, đến 30-4-1975, Phòng chính trị Bộ Tư Lệnh cấm không
được nói cho ai biết, nên Nhựt không dám hé môi” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 139, 140)
Chiến tranh Việt
Trung 1979: Khoảng cuối năm
1978 khi tình hình biên giới Việt-Kampuchia và Việt –Trung căng thẳng, quân
lính Kampuchia thường vượt biên giới cướp của và giết người mà Việt Nam không
có đối sách gì. Trong một dịp Tổng Bí thư Lê Duẫn đi thăm huyện Cần Giờ tháp
tùng bởi Huyện ủy và 30 cán bộ cao cấp khác, Nguyễn Thành Thơ ghi:
“Lê
Duẫn nói ‘Các anh có gì hỏi tôi giải đáp’ . Anh em phấn khởi rộ lên ‘Xin hỏi K
nó quấy rối biên giới ta, tàn sát cướp phá rất dã man điên cuồng, sao ta đối phó
rất lôi thôi, chúng tôi khó hiểu’. Anh Lê Duãn trả lời ‘Các đồng chí hỏi đúng
là một tình hình cả nước đều quan tâm, chúng tôi đau đầu lắm ngủ không được,
không phải là vấn đề Khmer đỏ, vấn đề Pôn Pốt mà là vấn đề ai đằng sau Khmer
đỏ, Pôn Pốt. Lần này ta có đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi, nhưng
ta đánh nó, Trung quốc đánh ta thôi, nhưng ta không chiếm K, Trung quốc cũng
không chiếm ta.” (“Cuối Đời Nhìn Lại” trang 159)
Ý kiến của cán bộ
cao cấp miền Nam về thống nhất đất nước: Nội bộ cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam có ý kiến
khác biệt về cách thống nhất đất nước, thống nhất chính trị mà không thống nhất
kinh tế hay thống nhất cả chính trị và kinh tế . Ông Nguyễn Thành Thơ viết như
sau về các cuộc thảo luận ở cấp cao:
“Lần
đầu tiên dự cuộc họp cán bộ hội nghị toàn quốc tại trường công an thành phố tại
Thủ Đức, do anh Lê Duẫn chủ trì, trong cuộc họp tôi nhớ các anh nói về thống nhất đất nước, vấn đề tôi nhớ mãi là
anh Linh (Nguyễn Văn Linh) phát biểu ‘Thống nhất đất nước, tiến hành ngay thống
nhất lãnh thổ, thống nhứt Đảng, đoàn thể, Mặt trận, Nhà nước, thống nhứt quân
đội … Nhưng đề nghị khoan thống nhứt kinh tế, để nó được phát triển như nó có,
ta xem ưu khuyết, cái gì phát huy, cái gì bỏ đi .”
(“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 160)
Trong một cuộc
họp sau đó tại Hà Nội do Trường Chinh chủ trì, ông Nguyễn Thành Thơ ghi rằng
một số cán bộ miền Bắc phê bình:
“Có
một số cán bộ Đảng viên (ám chỉ cán bộ miền Nam) không muốn thống nhứt đất nước
để hưởng thụ”. Ngày nghỉ họp, anh Bạch Đằng (Trần Bạch Đằng) đến gặp tôi kéo tôi đi nói: ‘Tôi anh đến gặp
anh Sáu Thọ’ (Lê Đức Thọ). Đến nhà anh Sáu Thọ anh vui vẻ tiếp, anh Bạch Đằng
nói: ‘Tôi không tán thành cuộc họp lần này, Trung ương có nhận xét một số Đảng
viên không muốn thống nhứt đất nước, chúng tôi tán thành thống nhứt tất cả, chỉ
có một điểm kinh tế để như nó có, lại nhận xét chúng tôi không muốn thống nhứt,
lại nói chúng tôi để hưởng thụ . Chúng tôi lo là lo nền kinh tế suy sụp đời
sống nhân dân khó khăn, nếu nói đó là để hưởng thụ thì nhân dân được hưởng thụ,
còn thống nhứt để dân nghèo thì chính trị đất nước thế nào’ Anh Sáu Thọ nói
‘Kinh tế là nền tảng, không thống nhứt kinh tế, tất cả các vấn đề khác thống
nhứt không có nghĩa gì.’ Hai anh cải với nhau rất gay gắt đến mức đứng lên ngồi
xuống quơ tay. Tôi ngồi rất lo …” (“Cuối Đời Nhớ Lại”
trang 160)
Đói do thống nhứt kinh tế, ngăn sông cách chợ: Trong thời gian 1976, 1977 dù một số cán bộ
miền Nam như Nguyễn Văn Linh, Trần Bạch Đằng chống thống nhứt kinh tế, nhưng Lê
Đức Thọ là người nắm thực quyền chủ trương thống nhứt toàn diện, nên những ủy
viên cao cấp khác như Lê Duẫn, Trường Chinh cũng để cho trôi qua (có thể sợ
chống thống nhứt kinh tế là đi ngược với chủ thuyết và bị chụp mũ là xét lại).
Cả nước sau đó rơi vào đói rách. Ông Nguyễn Thành Thơ kể lại một hoạt cảnh đói:
“Một
hôm khoảng 6 giờ tối, chồng thiếu tướng, vợ bác sĩ, trong lúc tôi Bí thư Chính
ủy khu miền Tây, chị là người chăm lo sức khỏe cho tôi, rất ơn nghĩa, đá cửa
rào nhà tôi kêu “Mười Khẩn, gạo đâu ăn?” (Mười Khẩn là một trong những bí danh của ông Nguyễn Thành Thơ). Tôi chạy ra
mở cửa, trước thái độ đói giận, tôi vô nhà vác bao gạo mới được cấp đem ra để
trên xe, xe rồ chạy về không có lời chào hỏi đến như đi”
(“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 164)
Một
hoạt cảnh khác không kém phần sống động. Nguyễn Thành Thơ ghi:
“Hai
anh em con tôi, sau những ngày ăn bo bo, khoai bắp, vừa có gạo nấu nồi cháo, em vào bếp múc tô cháo ăn, anh vô
bếp thếy em ăn, anh cúi xuống hỏi ‘Mầy ăn gì?’ Người em lấy mặt che tô cháo,
anh nắm lỗ tai dỡ lên ‘Mầy ăn cháo gạo không chờ ai ăn’, liền đẩy đầu em xuống
tô cháo, mặt đầy cháo, em ngóc đầu dậy lấy tô cháo vụt vào mặt anh, trúng mé
mắt máu ra lai láng, vợ tôi vội chở đến bệnh viện Gia Định cầm máu may lại.”
(“Cuối Đời Nhớ Lại” trang164, 165) .
Vai trò của
Trường Chinh trong cuộc đổi mới năm 1986: Chưa có tài liệu nào cho thấy vai trò của Trường Chinh
trong quyết định “đổi mới”. Nhưng dựa vào Hồi ký của ông Nguyễn Thành Thơ có lẽ
Trường Chinh đã có một vai trò tích cực. Nguyễn Thành Thơ viết:
“Lúc
đó (năm 1986) tình hình, anh Ba Duẫn mất, anh Trường Chinh được TW Đảng giao
nhiệm vụ Tổng Bí thư. Anh vào Sài Gòn được Thành ủy đưa xuống một số cơ sở sản
xuất, thấy sản xuất phát triển, lao động có việc làm, hàng hóa tiêu dùng không
thiếu, không khí sắp hàng mua hàng đi kiếm hàng không còn . Anh nói với anh em
“Đi lên xã hội chủ nghĩa, Đảng lãnh đạo, theo đường lối quần chúng, thực tế
thực tiễn, dân tộc và thời đại.” Rồi khen anh Linh là con người thực tế, thực tiễn, không duy ý chí, về Hà
Nội làm việc, sau đó quyết định đề bạt anh Linh làm Thường trực Ban bí thư .”
(“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 192).
Nhờ sự cất nhắc
và ủng hộ của Trường Chinh Nguyễn Văn Linh đã đắc cử Tổng Bí thư tại đại hội 6
của Đảng trong năm 1986 và cầm đầu cuộc “đổi mới” cứu Việt Nam ra khỏi nạn đói.
Cuốn Hồi Ký “Cuối
Đời Nhớ Lại” của ông Nguyễn Thành Thơ cho thấy, do đấu tranh nội bộ và áp lực
của tình hình thế giới Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết định “đổi mới” chính
sách kinh tế, và qua đó cởi bỏ được một trong hai cái gông họ máng lên đầu dân
tộc Việt. Cái gông còn lại là cái “gông chính trị”, cái Điều 4 của bản Hiến
Pháp quái ác hiện hành.
Chừng nào thì
Đảng cộng sản Việt Nam tháo gỡ cái gông còn lại để dân tộc có đầy đủ tự do
thong dong tiến bước?
Trần Bình Nam
Jan., 17, 2009
(1) Xem Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn trang
573
(2) “R” là Trung ương cục miền Nam, bộ phận lãnh đạo
cuộc chiến tại miền Nam của Hà Nội, thường đóng bên kia biên giới Cam Bốt người
cộng sản gọi là K
Trần Bình
|
http://www.tranbinhnam.com |