TỪ BÀI CA“ĐÁP LỜI SÔNG NÚI” CỦA TRÚC HỒ:
NHÌN LẠI HAI BÀI “TIẾNG GỌI
SINH VIÊN”
CỦA LƯU HỮU PHƯỚC
VÀ “TIẾN QUÂN CA” CỦA VĂN CAO
Phạm
Cao Dương
Như một hiện tượng bất ngờ của lịch sử, trong những tháng cuối
hè, đầu thu năm 2011, những biến cố liên hệ tới việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ
của Việt Nam trước nạn xâm lấn của người Tàu đã đồng loạt và liên tiếp xẩy ra
không riêng ở trong nước mà luôn cả ở Hải Ngoại và rộng hơn nữa là ở khắp nơi
có ngưòi Việt cư ngụ. Biển Đông cùng với các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở
ngoài khơi, các cao điểm ở biên giới phía bắc, trên đất liền, các khu rừng đầu
nguồn, Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan, các khu kỹ nghệ mới do người Tàu trúng thầu
xây dựng dọc theo lãnh thổ của quốc gia với hàng chục ngàn, có thể tới hàng
trăm ngàn và hơn nữa nhân công họ mang từ Trung Quốc sang đã trở thành đề tài
cho các cuộc biểu tình tranh đấu, các cuộc thảo luận hay phản đối chính sách
của nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội cùng đối tác của họ là Trung Hoa Cộng Sản.
Công hàm mang tên và chữ ký của ông Phạm Văn Đồng, người đã nắm chức thủ tướng
trong chính quyền Cộng Sản Việt Nam lâu nhất trong lịch sử, đã trở thành trọng
tâm của sinh hoạt báo chí và truyền thông cũng như các cuộc tranh luận của
không riêng người Việt mà còn cả quốc tế nữa. Tội danh bị coi như là bán nước
của ông thủ tướng họ Phạm và những kẻ đồng lõa với ông cũng như Đảng Cộng Sản
Việt Nam sau một thời gian dài được giấu kín, đến thời điểm này đã được những
người liên hệ thú nhận và vụng về bào chữa. Trong ít ra là mười tuần lễ Hà Nội
và Saigon với những cuộc biểu tình của ngưòi dân thuộc đủ mọi thành phần, đặc
biệt là của những nhà trí thức và những chuyên viên hàng đầu của chế độ đã trở
thành hai trung tâm được người Việt từ mọi nơi hướng về và được giới quan sát
quốc tế hàng ngày theo dõi.
Trong sinh hoạt vô cùng sôi bỏng kể trên, qua sinh hoạt văn nghệ
và đấu tranh của người Việt ở Hải Ngoại, một bài hát được làm từ trước, từ năm
2008, đột nhiên được phổ biến rộng rãi ở khắp nơi trên thế giới, rồi theo những
làn sóng truyền thanh và truyền hình, quốc tế cũng như của người Việt, những
mạng điện tử… truyền về trong nước và được chính những người biểu tình ở trong
nước cùng nhau hát rồi được các khán giả ngoài nước thích thú hát theo. Đây quả
là một hiện tượng bất ngờ chỉ có thể xẩy ra ở thời đại điện tử. Nhạc Sĩ Trúc Hồ
và bài Đáp Lời Sông Núi của ông bỗng
nhiên trở nên quen thuộc đối với mọi người dù người đó là một cá nhân ngồi
trước máy truyền hình hay máy vi tính ở nhà riêng của mình hay một đám đông tụ
họp với nhau chống “Trung Cộng xâm lược
và Việt Cộng bán nước” ở khắp các
vùng trời Á, Âu, Mỹ, Úc, đặc biệt là các cuộc biểu tình chung quanh ngày 14
tháng 9 năm 2011, ngày nhiều người chính thức gọi là ô nhục, ô nhục hơn tất cả
những ngày ô nhục khác trong lịch sử dân tộc. Chính nghĩa giành độc lập và giữ
nước mà Hồ Chí Minh đề cao và người Cộng Sản từ hơn sáu mươi năm tự coi là của
riêng mình và là điều mà Hồ Chí Minh coi như là “ý chí sắt đá”, “truyền thống quý báu đã có từ thời các vua Hùng” bỗng nhiên không còn nữa.[1] Tháng 9 năm 2011
mọi chuyện đã hiện ra trái ngưọc. Tên của Thủ Tướng Trần Văn Hữu của Quốc Gia
Việt Nam, tên của các Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn
Thiệu lại được nhắc đến cùng với tên của Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà cùng
với 74 chiến hữu của ông, sau này thêm 64 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam nữa ở
Trường Sa.
Câu hỏi được đặt ra là tại sao bài Đáp Lời Sông Núi[2] của Trúc Hồ lại có thể vượt không gian và đặc
biệt là đường ranh Quốc - Cộng để không riêng được mọi người ưa thích mà còn
được hát lên như vậy? Câu hỏi này đã khiến cho những người từng theo dõi sự
xuất hiện và phổ biến của những bài hùng ca đã xuất hiện từ cả hơn nửa thế kỷ
trước và đã từng làm dậy lên tình cảm và lòng ái quốc của toàn thể dân tộc nhớ
tới những bài hát của thời thập niên bốn mươi của thế kỷ trước. Trong số những
bài này có bài Tiếng Gọi Sinh Viên hay Sinh Viên Hành Khúc của Lưu Hữu Phước và các bạn của ông ở Đại Học
Hà Nội . Tiếng Gọi Sinh Viên sau đã
trở thành Tiếng Gọi Thanh Niên, đoàn
ca của tổ chức Thanh Niên Tiền Phong ở Miền Nam trong nhũng ngày đầu chống
Pháp, rồi sau đó thành Quốc Ca của Quốc Gia Việt Nam thời Quốc Trưởng Bảo Đại
để cuối cùng là của Việt Nam Cộng Hoà và hiện tại là của Người Việt Hải Ngoại.
Sự liên tưởng này không phải chỉ là bắt nguồn từ hiện tượng được phổ biến nhanh
chóng của hai bài hát mà từ cái tên của bài hát của Trúc Hồ: Đáp Lời Sông Núi. Bốn chữ này ai cũng
phải nghĩ là được lấy từ câu đầu của bài Quốc Ca của miền Nam: “Này công dân
ơi! Đứng lên đáp lời sông núi” mà Trúc Hồ hồi còn đi học ở quê nhà của ông
không tuần nào là không hát, ít ra là một lần. Sau này vượt biên ra Hải Ngoại
chúng đã trở thành nỗi nhớ nhung không bao giờ phai nhạt, dưới hình thức này
hay hình thức khác và đã được phản ảnh qua những ca khúc của ông. Vì vậy khi
tìm hiểu Đáp Lời Sông Núi, người ta
không thể không tìm hiểu Tiếng Gọi Sinh
Viên và tìm hiểu Tiếng Gọi Sinh Viên,
người ta không khỏi tìm hiểu Tiến Quân Ca
vì hai bài sau đã trở thành Quốc Ca của hai chế độ đối nghịch nhau trong suốt
thời gian từ sau năm 1945 cho đến những ngày hiện tại. Trong bài này người việt
sẽ tìm hiểu ba bài hát qua ba phần chính yếu là tác giả và hoàn cảnh sáng tác,
nội dung của các bài hát và cuối cùng là đối tượng và khả năng lôi cuốn của
những tác phẩm này.
A. Tác giả và hoàn cảnh sáng tác
I. Lưu Hữu Phước
Lưu Hữu Phước là người Miền Nam. Ông ra Hà Nội “du học” vào mùa
“thu năm 1940” sau khi đã học các truờng Tiểu Học Ô Môn, Trung Học Cần Thơ rồi
Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký và tất nhiên là đã đậu tú tài toàn phần. Lý do
là vì ở Việt Nam thời Pháp cả xứ Dông Dương chỉ có một trường đại học ở Hà Nội.
Sự ra Hà Nội học của một thanh niên Nam Kỳ ở thòi này là một giai đoạn mới
trong đời Lưu Hữu Phước. Sau này trong hồi ký của ông, Lưu Hữu Phước viết:
“Cũng như một số bạn bè, tôi đi Hà Nội với cảm xúc của một người con đi xa trở
về quê nhà. Tình yêu nước dạt dào trong tim chúng tôi.”[3] “Với tâm trạng đó,
chúng tôi cảm thấy mình ra Bắc như về thăm quê cũ. Những tên địa phương như
sông Hồng, núi Ba Vì, núi Tam Đảo, Ải Chi Lăng, Cửa Bạch Đằng… là những danh từ
mầu nhiệm, và mầu niệm hơn nữa là những đền đài lịch sử như Lý Bát Đế, Đồng
Nhân, Cổ Loa, Phù Đổng, mỗi di tích giống như một quyển sử dân tộc.”[4]. Từ
những khám phá mới bằng nội tâm và bằng tình cảm kèm theo với phong trào và
cuộc sống tươi trẻ của giới thanh niên, sinh viên, học sinh và hướng đạo đương
thời và cùng với bạn bè, Lưu Hữu Phước đã sáng tác những bài Ta Cùng Đi, Người Xưa Đâu Tá, Bạch Đằng
Giang, Ải Chi Lăng, Hận Sông Hát tức Hồn Tử Sĩ, Hội Nghị Diên Hồng… và tất
nhiên Tiếng Gọi Sinh Viên ở thời điểm này.
Tất cả cho đến khi bài này được viết và có lẽ chừng nào lịch sử Việt Nam
còn, tất cả những bài hát này vẫn còn giữ nguyên được giá trị ban đầu của
chúng[5]. Nên nhớ là trong thời gian này quân Nhật đã kéo vào Đông Dương và đã
chia sẻ quyền hành với người Pháp. Toàn Quyền Đông Dương, Đô Đốc Decoux do nhu
cầu ngăn chặn ảnh hưởng của người Nhật, đồng thời cũng để làm lệch hướng đấu
tranh của giới trẻ Việt Nam thời đó đã tỏ ra cởi mở hơn. Giới thanh niên, đặc
biệt là học sinh, sinh viên được chú ý tới hơn và phần nào được đãi ngộ khá
hơn. Cả một phong trào thanh niên dưới sự lãnh đạo của Hải Quân Đại Tá Ducoroy
đã được phát động từ Bắc chí Nam và luôn cả Miên, Lào. Lịch sử, tinh thần ái
quốc của người Việt Nam cũng được khai thác và cổ võ. Vai trò của Hoàng Đế Nam
Triều, lúc đó cũng được đề cao. Những bài hùng ca lịch sử nhờ đó đã có cơ hội
xuất hiện và phổ biến. Ngườì ta có thể, theo một khuynh hướng tự nhiên coi
những biện pháp này của người Pháp là có thâm ý không tốt, nhưng dù thế nào đi
chăng nữa nó đã mở đầu cho một sinh hoạt mới của tuổi trẻ Việt Nam và đã ảnh
hưởng tới nhiều phạm vi khác về sau này.
Theo như chính Lưu Hữu Phước, bài Tiếng Gọi Sinh Viên đã được sáng tác vào một đêm tháng tư năm 1941
do ông khởi đầu, sau đó được các bạn cùng phòng “chúng tôi gọt giũa” và “cùng
hát vang”[6]. Lời đầu tiên của bài này, có lẽ chịu ảnh hưỏng của những tuyên
truyền về “Khởi Nghĩa Bắc Sơn” nên đã nặng tính tranh đấu và hận thù với những
từ ngữ như lầm than, đau khổ, loài muông thú, hút máu, cửa nhà tan rã… và văn
phong còn thô kệch vụng về, sau này mới được mọi người sửa lại. Cũng chính Lưu Hữu Phước kể tiếp: “bài hát bí
mật của chúng tôi được anh em lấy làm bài hát sinh viên công khai. Anh em làm
lại lời ca, và sau nhiều lần sửa đi sửa lại và đấu tranh với Sở kiểm duyệt,
phong trào sinh viên đã có bài hát của mình tức là bài Tiếng gọi sinh viên (Lời ca
của Lê Khắc Thiều và Đặng Ngọc Tốt) khi phong trào lan rộng bài hát được nhân
dân tự động đổi là Tiếng gọi thanh niên.”[7] Nhưng đó là theo Lưu Hữu Phước,
theo những tác giả khác trong đó có Giáo Sư Nguyển Ngọc Huy thì hơi khác. Dẫn
theo lời của Bác Sĩ Nguyền Tôn Hoàn, đương thời là Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng
Hội Sinh Viên Đại Học Đông Dương tức Đại Học Hà Nội, Giáo Sư Huy cho biết là
nhân dịp Tổng Hội tổ chức một đêm ca nhạc vào ngày 15 tháng 3 năm 1942 tại Đại
Giảng Đường của nhà trường, nhằm lấy tiền giúp các bệnh nhân nghèo ở các bệnh
viện, nơi các sinh viên y và dược khoa thực tập, Tổng Hội lựa một bài ca lấy
tên là Sinh Viên Hành Khúc với tiếng
Pháp là Marche des Étudiants. Lưu Hữu
Phưóc đã đưa cho Bác Sĩ Hoàn một số bản nhạc do ông soạn và bài Tiếng Gọi Sinh Viên đã được lựa. Tiếp
theo là một ủy ban sửa hay soạn lại lời ca gồm có các ông Đặng Ngọc Tốt, Mai
Văn Bộ, Phan Thanh Hoà, Huỳnh Văn Tiểng, Hoàng Xuân Nhị, Nguyễn Tăng Nguyên.
Lời ca mà người ta có sau này là của tập thể của ủy ban sinh viên này.[8] Sau
ngày 15 tháng 3, là mùa hè năm đó một đại lễ mãn khoá đã được tổ chức tại nhà
hát lớn của thành phố, có Toàn Quyền Decoux và các quan chức cao cấp Pháp-Việt
đến dự và khi ban nhạc của Hải Quân Pháp cử hành bài Sinh Viên Hành Khúc này, tất cả mọi ngườì, kể cả Toàn Quyền Decoux,
đều đứng dậy.[9] Lưu Hữu Phước đã không nói tới những buổi lễ này dù cho chúng
là những danh dự mà một nhạc sĩ bình thường phải coi là một niềm hãnh diện. Ông
cũng không nói tới hai người nữ sinh viên là Nguyễn Thị Thiều, sau này là vơọ
của Bác Sĩ Nguyễn Tú Vinh và Phan Thanh Bình, sau này là Bà Nguyễn Tôn Hoàn, là
những ca sĩ đã hát bài của ông đêm tác phẩm của ông được chính thức ra mắt tập
thể sinh viên và công chúng thời ấy. Phải chăng, khi viết hồi ký, ông đã sợ một
điều bất ổn nào đó khi nói tới những vinh dự mà phía những người không phải là
Cộng Sản dành cho ông và tác phẩm của ông, lúc bấy giờ và sau này khi Tiếng Gọi Sinh Viên trở thành Tiếng Gọi Thanh Niên, Tiếng Gọi Công Dân rồi Quốc
ca của phía Người Việt Quốc Gia. Tất cả đều không được ông nhắc tới trong
hồi ký của ông, ngay cả tên của Tổ Chức Thanh Niên Tiền Phong. Về phía Người
Việt Quốc Gia, từ các nhà lãnh đạo Thanh Niên Tiền Phong đến Bác Sĩ Nguyễn Tôn
Hoàn, người đã đề nghị chọn Tiếng Gọi
Sinh Viên làm quốc ca cho Chính Phủ Quốc Gia đầu tiên do Cựu Hoàng Bảo Đại
thành lập và lãnh đạo và những người liên hệ không thể không suy nghĩ kỹ càng
và không có lý khi làm quyết định này. Lưu Hữu Phước không phải là tác giả duy
nhất của bài Tiếng Gọi Sinh Viên và
bài này khi được ra mắt công chúng không những đã trở thành sở hữu chung của tổ
chức sinh viên hồi ấy mà, dưới danh xưng chính thức là Sinh Viên Hành Khúc, còn là biểu trưng cho tinh thần và ưóc nguyện
của toàn thể giới thanh niên đương thời. Từ Hà Nội nó đã được phổ biến mạnh mẽ
ra toàn quốc, đặc biệt là ở miền Nam, ở Saigon và ở các tỉnh song song với các
phong trào thanh niên thể thao Ducoroy, Hướng Đạo...Phải đọc những hồi ký hay
những lời kể lại của các nhân vật đã từng sống ở miền Nam và đã từng tham gia
hay bị lôi cuốn vào phong trào này hay của chính Lưu Hữu Phước người ta mới
thấy được tầm phổ biến và sự quan trọng của bài Sinh Viên Hành Khúc, cũng như là các bài Bạch Đằng Giang, Lên Đường, Ải Chi Lăng… trong sinh hoạt thanh niên thời bấy giờ. Gió Mùa Đông Bắc của Bác Si Trần Ngươn Phiêu, “Nhớ Quê Hương” của
Nguyễn Minh Hoài Việt, “Hồi Ký “của Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn và sau này là các
bài viết của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và của Giáo Sư Phạm Hồng Đảnh… đã nói lên
điều đó. Tinh thần của những sinh hoạt này cho nguời ta thấy rõ một ý thức mới
về sự thống nhất thể hiện qua sự trực tiếp khám phá ra qua những cuộc thăm
viếng tiếp những di tích của lịch sử oai hùng của dân tộc của các sinh viên gốc
miền Nam ở Đại Học Hà Nội, qua những cuộc thăm viếng tiếp những di tích ở chung
quanh thành phố Hà Nội trong những năm đầu của thập niên bốn mươi của thế kỷ
trước, đã thành hình và đã trở thành căn bản của các cuộc đấu tranh của toàn
thể dân tộc Việt Nam trong những năm kế tiếp. Độc lập luôn luôn phải đi đôi với
thống nhất, bắt đầu là thống nhất lãnh thổ sau đó là thống nhất tinh thần dân
tộc mà cả hai phía Cộng Sản và Quốc Gia đều đề cao không riêng trong sinh hoạt
chính trị và quân sự mà luôn cả trong giáo dục, văn hóa và nghệ thuật nữa.
II. Trúc Hồ
Cũng giống như Lưu Hữu Phước, Trúc Hồ cũng sở trường về các bài
ca lịch sử mang dấu vết của thời đại mình đang sống. Từ Bên Em Đang Có Ta (lời của Trầm Tử Thiêng), Một Ngày Việt Nam (lời của Trầm Tử Thiêng),Việt Nam Niềm Nhớ (lời củaTrầm Tử Thiêng), Cám Ơn Anh (lời của Trầm Tử Thiêng), Con Dường Việt Nam (lời của Anh Bằng), Con Rồng Việt Nam (lời của Việt Dũng), Thiên Thần Trong Bóng Tối, Đáp Lời Sông Núi... Trúc Hồ cũng đã cống hiến cho đám đông người hát và người
nghe nhiều bài được họ nồng nhiệt đón nhận. Và cũng giống như Lưu Hữu Phước với
Tiếng Gọi Sinh Viên, Trúc Hồ, với Đáp Lời Sông Núi, cũng có một bài kêu
gọi anh em, đồng bạn của mình. Bài hát được phổ biến nhanh chóng từ một nơi xa
xôi ở Hải Ngoại lời ca dội ngưọc trở lại quê hương Việt Nam của tác giả. Nhưng
khác với Lưu Hữu Phước, Trúc Hồ không có đưọc sự may mắn của Lưu Hữu Phước.
Sinh ra và lớn lên trong thời Pháp Thuộc nhưng Lưu Hữu Phước vẫn được sống một
tuổi thơ an bình, hạnh phúc. Khi lớn lên ông lại được cha mẹ nuôi cho ăn học
đầy đủ ở khắp các trường danh tiếng ở miền Nam rồi sau đó ra Hà Nội “du học”. Ở
Hà Nội ông đã có những ngày thật đẹp và thật phong phú cho một thanh niên mới
lớn, từ lâu khát khao trở về với quá khứ dân tộc qua những buổi du ngoạn cùng
với các bạn đồng hương của mình trong những ngày nghỉ. Trúc Hồ trái lại chỉ có
một tuổi thơ là tương đối hạnh phúc, được sống với cha mẹ, được cắp sách đến
trường trong một nước Việt Nam độc lập và độc lập hoàn toàn ít ra là trong phạm
vi giáo dục như bất cứ một đứa trẻ nào khác, dù cho đất nước của ông lúc này đã
bị chia đôi và đang trải qua một thời gian chiến tranh khốc liệt nhất trong
lịch sử. Sau này trong bài Thiên Thần
Trong Bóng Tối, ông đã ghi lại:
“Từ khi tôi chào đời, bập bẹ hai tiếng Việt Nam. Yêu quê hương
qua từng trang sách, Hùng Vương, Phù Đổng rạng ngời.”
Biến cố Tháng Tư 1975 đã cướp đi tất cả. Trường cũ, thày cô ngày
trước không còn như xưa nữa. Ngay cả cái tên trường ông theo học, Trường Petrus
Trương Vĩnh Ký thân yêu, quen thuộc và là niềm hãnh diện của toàn thể dân chúng
miền Nam cũng đã bị loại bỏ và bị thay thế
bằng một cái tên Lê Hồng Phong lạ hoắc. Nhưng cũng may là, ngoài Trường
Petrus Ký, Trúc Hồ còn có một trường khác, hay nhiều “trường” khác và nhiều
thày khác mà ông không những cũng yêu mến không kém mà còn gắn bó hơn, bằng
cách này hay cách khác theo học suốt đời. Đó là những trường nhạc, nơi ít ra ba
vị thày đã không những hướng dẫn ông về chuyên môn mà còn giúp ông đứng vững để
tiến tới trong thời kỳ dễ bị khủng hoảng và hư hỏng nhất của đời người. Đó là
các nhạc sĩ và giáo sư âm nhạc nổi tiếng của miền Nam đương thời, các nhạc sĩ
Nghiêm Phú Phi, Hùng Lân và Đại Tá Trần Văn Tín, Chỉ Huy Trưởng ngành quân nhạc của Quân Đội Việt Nam Cộng
Hoà, sau này là nhiều thày cô khác, sau năm 1975, từ miến Bắc vào như Chí Vũ,
Cao Lê Thuần và các thày mà bây giờ ông chi còn nhớ tên mà không nhớ họ như
Thày Dung, Cô Diệu..., mà ông luôn luôn
nhắc tới với những lời trìu mến, biết ơn.[10] Tất nhiên là còn nhiều vị thày
hay các bậc đàn anh hay bạn bè khác. Nói cách khác, Trúc Hồ có rất nhiều thày,
thày chính thức hay thày ở ttrường đời. Đây là điểm thứ hai Trúc Hồ may mắn hơn
Lưu Hữu Phuớc vì Lưu Hữu Phước khi học tân nhạc chỉ là tự học qua sách vở hay
bạn bè. Cuộc sống thiếu êm đềm của Trúc Hồ không ngừng ớ đó. Nó vẫn tiếp tục
với cuộc vượt biên tị nạn của ông, vượt biên theo đúng nghĩa vượt biên giới của
nó. Ở đây là vượt biên giới Việt Miên với tất cả những gì nguy hiểm và đầy hãi
hùng của cuộc phiêu lưu, vô cùng liều lĩnh và vô vọng này . Tiếp theo là những
ngày sống trong trại tị nạn, đúng ra là trại tù ở biên giới Thái Lan-Căm Bốt
như là một trẻ em vị thành niên đi một mình, một “unaccompanied child”trong
trại NW-9. Sau đó là cuộc sống không người thân ở bên Mỹ.[11] Tìm hiểu những
bài hùng ca của Trúc Hồ, người ta cần phải để ý tới những yếu tố liên hệ tới
cuộc sống đầy bão tố của riêng ông, đồng thời cũng là của toàn thể miền Nam và
nhân dân miền Nam trong suốt thời gian này và những kinh nghiệm của riêng ông,
những kinh nghiệm mà không phải bất cứ người tị nạn Việt Nam nào cũng có, ở
trong nước cũng như ở Hải Ngoại. Bên Em
Đang Có Ta là một trong số những
kinh nghiệm đó:
Bao nhiêu em bé thơ, như nụ hoa, dưới mặt trời
Cười hồn nhiên tung tăng hát vang, mừng nắng tươi.
Bao nhiêu em bé thơ, như nụ hoa dưới mặt trời,
Rời lòng nôi trong đêm gió mưa, ra biển khơi.
Mẹ yêu em thiết tha hơn mùa xuân trong cuộc đời,
Chờ nhìn con theo hoa hướng dương, tìm nắng tươi.
Cha yêu em thiết tha, mang gửi con cho tình người,
Mặc đại dương mênh mông khoác lên thân nhỏ nhoi.
Bên em đang có ta, hát về em tương lai xót xa,
Hát giùm em cơn mơ thiết tha, giấc mơ tuổi hoa.
Bên em đang có ta, thống thiết kêu vang lương tâm thế gian
Cứu vớt em rời khỏi ngày u ám, giữa trại giam.
Khóc trong lầm than, Khóc trong trại giam.
Khi con tim thế nhân, chưa thờ ơ, chưa lạnh lùng,
Thì cùng nhau đêm nay hát lên, lời hát chung.
Cho em tôi héo hon, đang ngửa tay xin tình người,
Dòng lệ rơi trên đôi má khô, trong lẻ loi.
Tại sao nhạc của Trúc Hồ lại vừa bi thảm, vừa
hùng mạnh, vừa nồng nàn, tha thiết, xót xa và nhiều hấp lực đối với đám đông
như vậy? Bỏ qua những yếu tố này người ta không thể nào cắt nghĩa được. Phải
nhìn sâu vào hoàn cảnh và tâm tư của chú bé unaccompanied Trúc Hồ vào thời điểm
lúc ở trong trại, được chính mắt thấy, chính tai nghe những thảm cảnh bi đát
của những em còn nhỏ tuổi hơn mình và của thày giáo nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng cũng
vượt biên tị nạn như các em người ta mới phần nào thông cảm được.
III. Văn Cao
Tuy nhiên, so với Trúc Hồ, Văn Cao,
tác giả của Tiến Quân Ca, sau này là Quốc Ca của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
và hiện thời là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, còn bất hạnh hơn nhiều. Văn
Cao, như ai cũng biết và cũng đều phải công nhận, mãi mãi là một trong những
thiên tài về âm nhạc của Việt Nam. Ông đã nổi tiếng từ lâu trước khi viết Tiến Quân Ca qua những bài hát mà không
riêng gì đương thời, mà luôn cả trong hiện tại, sáu bảy chục năm đã trôi qua,
rất ít người Việt Nam yêu nhạc nào mà không biết và không yêu mến. Không những
thế ông còn là một nhà thơ và một họa sĩ tài hoa nữa. Có điều hoàn cảnh đã đưa
ông đến việc sáng tác Tiến Quân Ca là
cả một bi kịch thê thảm nhất và đáng thương nhất trong lịch sử nghệ thuật của
dân tộc Việt Nam. Văn Cao đã không tự mình sáng tác theo cảm hứng riêng của
mình mà vì đã nhận lời của một cán bộ cao cấp của Đảng Cộng Sản để làm bài này,
rồi cũng từ đó ông vướng mắc vào hết hệ lụy này sang hệ lụy khác, kể cả chuyện
ông đã lãnh súng, tham gia ban ám sát và đã nhúng tay vào những vụ giết
ngưòi.[12] Lý do là năm đó, năm 1944, Văn Cao bị thất nghiệp, tranh triển lãm
bán không được, lại gặp năm “trời rét hơn mọi năm” và khi “những ngày đói của
tôi bắt đầu”. Câu chuyện đã được chính nhạc sĩ, hơn ba mươi năm sau, kể lại,
nguyên văn như sau:
“Sau triển lãm Duy Nhất 1944 (Salon unique), tôi về ở một căn
gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi tuy được trưng
bày vào chỗ tốt nhất của phòng tranh – nhà Khai Trí Tiến Đức – và được các báo
giới thiệu, cũng không bán nổi. Hi vọng về cuộc sống bằng hội họa, tại Hà Nội
không thể thực hiện được. Anh bạn nhường cho tôi căn gác ấy là người xuất bản
mấy bản nhạc đầu tiên của tôi cũng không thấy nói đến tiện nhuận bút. Tôi chưa
bao giờ nhận được tiền nhuận bút về các bản nhạc viết hồi dó dù đã trình diễn
nhiều lần ở các tỉnh từ Bắc tới Nam, tôi
cũng không nhận được tiền nhuận bút về thơ và truyện ngắn…. Hàng ngày tôi nhờ
mấy họa sĩ nuôi cơm và giúp đỡ phương tiện cho làm việc. Cuộc sống lang thang
ấy không thể kéo dài nhiếu ngày. Muốn làm việc thì không có chỗ. Hà Nột lúc ấy
lại đang đói.
“Năm ấy rét hơn mọi năm. Tôi ngủ mặc nguyên quần áo. Có đêm phải
đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm ấy cũng dài hơn mọi năm. Những ngày đói
của tôi bắt đầu.”[13]
Đúng vào lúc đó thì
Vũ Quí, người cán bộ Việt Minh thường theo dõi Văn Cao từ nhiều năm trước xuất
hiện. Văn Cao kể tiếp:
“Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quí. Anh là người vẫn theo dõi những
hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua và thường khuyến khích tôi sáng tác
những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng Rừng và một
số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi vào một tiệm
ăn. Ở đấy quyết định cuộc đời của tôi. Câu chuyện giữa chúng tôi hết sức đơn
giản.
- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?
- Được.
- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận
phụ cấp hàng tháng.
- Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí
thợ giày đầu ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và chờ quyết định và công tác.
Ngày đầu tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.”[14]
Sau đó Vũ Quí đến tìm Văn Cao giao
công tác. Công tác đó là:
-
“Hiện nay, trên chiến khu thiếu
bài hát, phải dùng những điệu hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh
hãy soạn một bài hát cho quân đội cách mạng của chúng ta.” [15]
Đây là một việc làm hoàn
toàn xa lạ đối với một nghệ sĩ như Văn Cao. Ông đã không được làm theo ý riêng
và theo hứng khởi của mình mà phải làm theo đơn đặt hàng và để trả nợ với một
đề tài không chứa đựng một điều gì quen thuộc. Ông chưa bao giờ lên chiến khu
và chưa bao giờ thấy quân Việt Minh ở chiến khu mà phải nói tới chiến khu và
quân Việt Minh ở chiến khu. Theo Văn Cao kể lại, ông đã làm bài hát này trong
“không biết bao nhiêu ngày tại căn gác hẹp số 45 Nguyễn Thượng Hiền” Hà Nội và
trong đêm đầu tiên, sau khi đã đi lang thang dọc theo các đường phố quen thuộc
với câu hỏi lúng túng trong đầu: “Phải làm thế nào đây?”, ông chỉ “viết được
nét nhạc đầu”. [16] Điều này cũng dễ hiểu vì cũng như Lưu Hữu Phước, khi làm
bài này ông không thể không nghĩ tới bài Quốc ca của nước Pháp, bài La Marseillaise. Bằng chứng là trong
phần lời ông làm sau này có câu “Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước”, một câu
tương tự như câu “L’étandard sanglant est levé” trong bài La Marseillaise. Điều tôi muốn nói lên ở đây là Văn Cao không làm
bài Tiến Quân Ca trong một hoàn cảnh
đầy vui tươi, hứng khởi như hoàn cảnh của Lưu Hữu Phước khi họ Lưu làm bài Sinh Viên Hành Khúc hay của Trúc Hồ khi
người nhạc sĩ thuộc thế hệ một chấm rưỡi (1.5) ở Hải Ngoại làm bài Đáp Lời Sông Núi về sau này. Tạo nên nét
nhạc cho đơn giản cho mọi ngưòi cùng hát đối với một thiên tài như Văn Cao
không phải là chuyện khó. Lời hát đi kèm sao cho đúng ý của người đặt hàng mới
chính là vấn đề. Trong hồi ký của ông, Văn Cao không cho biết là Vũ Quí khi
giao công tác cho ông có chỉ thị cho ông biết là lời hát phải như thế nào hay
không, từ ý tưỏng đến từ ngữ đươọc dùng, nhưng những tiếng như cứu quốc, chiến
khu, sao vàng, đời mới, võ trang, Thái Nguyên, Đô Lương, Bắc Sơn…rõ ràng là
những ngôn từ của thời đại. Ngưòi ta cũng không biết là Nguyễn Đình Thi, một
cán bộ văn hóa cao cấp khác, tác giả của bài Diệt Phát Xít có ảnh hưởng gì tới Văn Cao hay không, nhưng hai
người có gặp nhau theo lời kể của Văn Cao: “Tôi nhớ lại nụ cười hồn nhiên của
đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát đó.” Xướng
âm nhạc điệu ở đây phải được hiểu là nhạc điệu thôi, không phải là lời. Còn
Nguyễn Đình Thi thì sau này khi được Ngô Vĩnh Bình phỏng vấn vào tháng 3 năm
1985 “đã cười bảo: bài Diệt phát-xít thực ra chỉ diễn tả những khẩu hiệu, đường
lối của Việt Minh lúc ấy.”[17] Đường lối này không thể khác hơn là đường lối đã
được Trường Chinh vạch ra trong Bản Đề
Cương Về Cách Mạng Văn Hóa Việt Nam năm 1943
của Đảng Cộng Sản Việt Nam mà Vũ Quí, Nguyễn Đình Thi hay cao hơn
nữa là Lê Quang Đạo chỉ là những cấp thừa hành.[18] Nghi vấn này nếu được giải
tỏa thì câu “Thề phanh thây uống máu quân thù” có thể hiểu là không phải của
Văn Cao mà là của những người khác hay do ý của người khác. Một nghi vấn về một
đồng tác giả của Tiến Quân Ca do tờ TPCN (người
viết bài này nhất thời chưa rõ tên thực sự của tờ báo này là gì, không biết có
phải là Tiền Phong Chủ Nhật hay
không?) một dạo đã được nêu lên, căn cứ vào bản in đầu tiên do chính Văn Cao
trực tiếp lo phần ấn loát. Nguyễn Thụy Kha đã hỏi lại chính Văn Cao qua một
cuộc phỏng vấn vào năm 1993, một buổi sáng sau ngày mừng sinh nhật của Văn Cao,
có thể phần nào giúp ta hiểu rõ hơn vấn đề này. Câu chuyện đã được Nguyễn Thụy
Kha ghi và người viết xin chép lại nguyên văn để người đọc thấy thêm được nhiều
chi tiết quan trọng cũng như những hệ lụy khác:
“Nguyễn Thụy Kha: Thưa bác, có lẽ vì đêm đó
quá vui, bác mệt.
“Văn
Cao: Đúng, vui lắm. hình như tôi đã chọc anh nhiều. Song cuộc vui nao chẳng
tàn. Cái buồn lưu cữu lại ập đến.
“NTK:
Vâng! Cháu rất biết. Chúng ta đều là con người chứ có phải lằ gỗ đá đâu. Cũng
vì vậy, hôm nay, cháu xin bác nói thêm với cháu và tất cả mọi người về cái buồn
của bác trong thời gian này.
“V.C:
Có gì đâu. Mọi việc vì tôi là tác giả Quốc Ca, anh ạ! Tự nhiên bây giờ sau 46
năm lại có tờ TPCN đặt vấn đề nghi vấn.
Trong việc này, có những cái nhìn bị nhiễu từ kênh này sang kênh khác.
“N.T.K:
Bác nói chắc đấy chứ? Kẻo lại mang tiếng cho dụng ý tốt của tờ báo.
“V.C:
Tôi đã nói là chắc. Mà đã nói rồi nhưng rất tiếc là anh Xuân Ba, người đến
phỏng vấn tôi kỳ trước không viết ra hết mặt báo. Trong việc này có ba sự thật:
“-
Sự thật thứ nhất là: Tôi là ngưòi viết Tiến quân ca, điều ấy chỉ có tôi mới
biết vì khi tôi sáng tác bài này trong bí mật, không ai được biết. Ai nói biết
là bịa.
“-
Sự thật thứ hai: Tôi đã có ý để anh Đỗ Hữu Ích đứng tên cùng là tác giả phần
lời với mật danh Anh Dũng. Lúc ấy tôi lấy mật danh là Anh Thọ. Bài Tiến quân ca
đầu tiên do tôi trực tiếp ấn loát ghi tác giả: Nhạc Anh Thọ, lời Anh Dũng. Tôi
có ý để anh Ích trong bài Tiến quân ca có hai lý do:
“1.
Lúc ấy tôi là bạn anh Ích và đang lấy tạm nhà anh Ích làm cơ sở hoạt động.
“2.
Để anh Ích đứng tên chung có lợi ở chỗ nếu anh Ích có muốn phản bội thì cũng
không dám vì đã trót đứng tên chung cùng với tôi. Đây là một phép trong hoại
động bí mật. Buộc phải đề phòng mọi khả năng. Anh Ích quen rất nhiều hiến binh.
Bài Tiến quân ca khi đó mới chỉ là bài ca của quân cách mạng. Người sáng tác
bài ca là kề với cái chết bất cứ lúc nào. Tôi để anh Ích đứng chung bằng mật
danh là để bảo vệ bài ca này.
“Nhưng
đó là thời kỳ bí mật. Sau cách mạng khi anh Ích lập nhà xuất bàn Đỗ Văn thì lúc
này anh đã tự chuyển ý sang: Nhạc Văn Cao, lời Đỗ Hữu Ích, kể cả khi anh vận
động nhà in in ở Hải Phòng. Nó đã lột được bản chất xấu của anh Ích.
“Sự
thật thứ ba là: Khi bài Tiến quân ca được công nhận là Quốc ca Việt Nam, nó
được sự góp ý về nhạc của anh Đinh Ngọc Liên và Nguyễn Hữu Hiếu. Còn lời thì
anh Tố Hữu đã sửa nhiều câu (xin để ý mấy chữ này). Nhưng khi Bác Hồ yêu cầu
gặp tác giả Quốc ca thì chỉ một mình tôi (do anh Tố Hữu đưa đến gặp Bác. Vì
thế, năm 1946 nhà nước in bài Tiến quân ca và Quốc ca trong hiến phápcông bố
với toàn dân và nước ngoài là Văn Cao. Vậy báo Tiền Phong CN với lòng công tâm
giúp đỡ anh Ích thì phải cùng anh Ích đấu tranh với nhà nước để đòi bằng được
cho anh Ích, Tôi làm sao làm được việc đó…. Nếu Quốc hội đã chứng nhận tôi là
tác giả Quốc ca thì tôi phải nghe và chấp hành. Khi ấy, kẻ nào nhận thêm vào
tức là mạo danh tác giả rồi. Có ngồi với nhau cũng chả giải quyết được.”[19]
Qua những gì Văn Cao
giải thích kể trên, ta có thể nói không phải dè dặt rằng bài Tiến Quân Ca là do Văn Cao làm với sự
góp ý và luôn cả sửa chữa của nhiều người trong đó có Tố Hữu. Riêng Tố Hữu “đã
sửa nhiều câu”. Cũng vậy tất cả đã được làm trong bí mật mà nếu không có chuyện
Đỗ Hữu Ích đòi chia sẻ quyền tác giả thì Văn Cao đã không nói ra. Nói cách khác
những gì Văn Cao nói ra chỉ là một phần của sự thật nhưng người ta vẫn có thể
kết luận rằng Văn Cao không phải là tác giả duy nhất của bài Tiến Quân Ca nhất
là về phần lời hát. Phần này đã được sự góp ý của nhiều người trong đó có Tố
Hữu và Nguyễn Đình Thi, hai cán bộ cao cấp đương thời và về sau này. Ngay cả
cái tên của bài hát, Nguyễn Đình Thi cũng có góp phần, đồng thời hai chữ Việt
Minh trong câu “Đoàn quân Việt Minh đi chung lòng cứu quốc” là hai chữ được
dùng lúc ban đầu, sau này mới được đổi thành Việt Nam. Việt Minh lúc ấy chỉ là
một đảng, hay một mặt trận, còn nhiều đảng và mặt trận khác. Chính vì vậy bài
hát khi được phổ biến mới bị những ngưòi chống Việt Minh nhái đi thành: “Đoàn
quân Việt Minh đi xe nhà phất phới, dắt họ hàng làng nước ra làm quan”.[20]
B. Nguyên văn lời hát
I. Sinh Viên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Sinh
Viên
Bài này có ba lời một điệu , mỗi lời
gồm mười câu và bốn câu điệp khúc chung.
Lời I kêu gọi sinh viên Bắc - Nam, cả
nước, cùng nhau kết đoàn, “đứng lên đáp lời sông núi”, “mở đường khai lối” cho
đồng bào, dù cho thời thế khó khăn, chông gai đầy dẫy. Trên con đường mới, mở
rộng tầm mắt ra bốn phương với tâm hồn trong sáng và can trường của tuổi thiếu
niên. Nguyên văn như sau:
Này sinh viên ơi! Đứng lên dáp lời sông núi!
Đồng lòng cùng đi, đi, đi mở đường khai lối.
Vì non sông nước xưa truyền muôn năm chớ quên,
Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!
Hồn thanh xuân như gương trong sáng,
Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!
Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,
Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá.
Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương,
Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường.
và phần điêp khúc:
Sinh viên ơi! Sinh viên
ơi!Ta quyết đi đến cùng!
Sinh viên ơí! Sinh viên
ơi! Ta nguyền đem hết lòng!
Tiến lên! Đồng tiến! Vẻ
vang đời sống!
Chớ quên rằng ta là giống
Lạc Hồng!
Lời II nhắc lại lịch sử “hùng cường”
trong cõi “Trời Nam” của dân tộc với những chiến thắng bình Chiêm, phá Tống,
đánh đuổi quân Nguyên, kháng cự oai hùng của Hai Bà Trưng ở Hồ Tây, Lam Sơn
Khởi Nghĩa của Lê Lợi, dẹp tan quân Thanh của Quang Trung và kêu gọi sinh viên
đừng quên khí phách từ xưa được truyền lại của nòi giống, mong mỏi có ngày đất
nước vẻ vang. Nguyên văn như sau:
Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xóa!
Hùng cường Trời Nam ghi
trên bảng vàng bia đá!
Lùa quân Chiêm nát tan,
thành công Nam Tiến luôn (mau tiến lên),
Bình bao phen Tống
Nguyên, từng ca câu khải hoàn.
Hồ Tây tranh phong oai
son phần,
Lừng tiếng Sát Thát, Trần
Quốc Tuấn.
Mài kiếm cứu quốc (nước)
nhớ Người Núi Lam,
Trừ
Thanh Quang Trung giết hàng bao đám.
Nòi giống có khí phách từ
xưa chớ quên,
Mong đến ngày vẻ vang, ta
thắp hương nguyền
(Trở lại điệp khúc)
Lời III kêu gọi sinh viên, vì đường
còn xa, phải noi gương người xưa, “cùng nhau gắng”, “đem lòng son cho giống
dòng”, trong vị thế và khả năng của mình “vun cây văn hoá”, “vững cầm tay lái”,
“bền chí quyết gắng sức làm cho khắp nơi vang tiếng người nước Nam cho đến muôn
đời!”. Nguyên văn như sau:
Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng,
Hành trình còn xa, anh em
phải cùng nhau gắng!
Ngày xưa ai biết đem tài cao
cho núi sông,
Ngày nay ta cũng đem lòng
son cho giống dòng.
Là sinh viên vun cây văn
hóa,
Từ trước sẵn có nhiều hoa lá.
Đời mới kiến thiết đáp lòng
những ai
Hằng mong ta ra vững cầm tay
lái.
Bền chí quyết cố gắng làm
cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam
cho đến muôn đời![21]
(Trở lại điệp
khúc)
Khi bài được nhận làm đoàn ca của
Thanh Niên Niền Phong và sau đó là Quốc
Ca của Quốc Gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại theo dề nghị của Bác Sĩ
Nguyễn Tôn Hoàn và theo Bác Sĩ Hoàn thì nhan đề của bài hát được đổi thành
Thanh Niên Hành Khúc và nội dung cũng được sửa lại như sau:
Này
thanh niên ơi! Quốc Gia đến ngày giải phóng
Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì
thân sống.
Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên.
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dù cho phơi thây trên gươm giáo.
Thù nước lấy máu đào đem báo.
Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy.
Người thanh niên ta cố rèn tâm trí.
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời.
Điệp khúc:
Thanh niên ơi! Thanh niên ơi! Mau hiến thân
dưới cờ!
Thanh niên ơi! Thanh niên ơi! Mau làm cho cõi bờ!
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống,
Xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng!
Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn giải thích sự lựa chọn
này như sau:
“Khoảng năm 1947, trước khi trỏ về
nước lập chính phủ mới, cựu hoàng Bảo Đại có mời tôi và một số đại diện tôn
giáo, các chính khách như các ông Ngô Đình Diệm, Đinh Xuân Quảng, Phan Huy
Quát, Trần Văn Tuyên, Trần Quang Vinh, Trần Thành Đạt, BS Lê Văn Hoạch, Trần
Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, v..v…đến họp tại Hồng Kông. Trong buổi hội nghị này có
bàn về sự lựa chọn quốc kỳ và bản quốc ca cho Việt Nam. Hình vẽ là cờ vàng ba
sọc đỏ tượng trưng ba miền Trung, Nam, Bắc của họa sĩ nổi danh tại miền Nam là
họa sĩ Lê Văn Đệ đã được chọn làm quốc kỳ Việt nam. Tôi đề nghị chọn bản ‘Tiếng
Gọi Sinh Viên’ làm quốc ca, vì nó là linh hồn cuộc chống Pháp tại miền Nam Việt
nam của Đoàn Thanh Niên Tiền Phong. Hội nghị đã chấp thuận và bản nhạc được đổi
tên là Thanh Niên Hành Khúc với lời
nhạc…”[22] (được giữ nguyên như trên)
Về thời điểm Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn
chỉ nói là vào khoảng năm 1947 và cũng không giải thích sự thay đổi lời hát
nhưng điều này không khó hiểu vì thời cuộc Việt nam vào lúc này đã hoàn toàn
thay đổi. Lực lượng của người Việt Quốc Gia đã được tập hợp lại dưới sự lãnh
đạo của Cựu Hoàng Bảo Đại và chính quyền Quốc Gia của một nước Việt Nam độc lập
và thống nhất đang trên đà thành hình, việc lựa chọn Quốc Kỳ và Quốc Ca, những
biểu tượng cho một chính thể mới, phải là một trong những việc làm đầu tiên cần
được thực hiện. Cờ vàng với ba sọc đỏ là tượng trưng cho sự thống nhất ba kỳ,
nguyện vọng của mọi người lúc đó, Thanh
Niên Hành Khúc là linh hồn cuộc kháng chiến chống Pháp tại miền Nam Việt
Nam của Đoàn Thanh Niên Tiền Phong là những lý do được nêu lên. Ta cũng cần
phải thêm vào đó một sự kiện không thể chối cãi được. Đó là những sinh viên
xuất thân từ xứ Nam Kỳ là những ngưòi đã đóng vai trò quan trọng nhất trong
việc sáng tác và phổ biến ca khúc này. Tiếp theo là sự thành hình của chính
quyền quốc gia và sự thực thi nền thống nhất lãnh thổ và thống nhất dân tộc. Cả
hai cùng bắt đầu từ miền Nam, từ xứ Nam Kỳ. Nói cách khác nền thống nhất của
đất nước Việt Nam vào cuối thập niên bốn mươi đã không đến bằng bạo lực mà bằng
hòa bình và phát khởi từ miền Nam. Miền nam đã ý thức được nguồn gốc và vai trò
lịch sử của mình, đã tìm cách trở về với dân tộc. Đó là sự trở về với lãnh thổ
quốc gia của xứ Nam Kỳ do chính người miền Nam chủ xướng. Trong hoàn cảnh này,
lời của bài hát đương nhiên là phải được sửa đổi.
Giai đoạn tiếp theo là thời kỳ chế độ Cộng Hoà
ở miền Nam được thành lập, người Pháp đã ra đi, nền độc lập đã hoàn toàn được
thực hiện, một giai đoạn mới đã bắt đầu, lời của Quốc Ca một lần nữa cần được
điều chỉnh thêm một lần nữa cho thích hợp với một nước Việt Nam độc lập đang
trên đường củng cố và xây dựng.
Nguyên văn của lời mới như sau:
Này công dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!
Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì
thân sống.
Vì tương lai quốc dân cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dù cho thây phơi trên gươm giáo,
Thù nước lấy máu đào đem báo.
Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,
Người công dân luôn vững bền tâm chí.
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời
Điệp khúc:
Công dân ơi! Công dân ơi! Mau hiến thân dưới
cờ!
Công dân ơi! Công dân ơi! Mau làm cho cõi bờ!
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống,
Xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng.[23]
II.
Tiến Quân Ca
Tiến
Quân Ca là một hành khúc gồm một điệu nhạc và
hai phần lời, được làm cho quân Việt Minh lúc đó mới được thành lập trên chiến
khu, theo lời yêu cầu của Vũ Quí. Nguyên văn phần lời ban đầu như sau:
Lời I:
Đoàn
quân Việt Minh đi chung lòng cứu
quốc,
Bước chân dồn vang trên đưòng gập ghềnh
xa.
Cờ in máu chiến thắng mang hồn
nước,
Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca.
Đường vinh quang xây
xác quân thù.
Thắng gian lao đoàn
Việt lập chiến khu.
Thề phanh thây uống máu quân thù!
Tiến mau ra sa
trường. Tiến lên! Cùng thét lên!
Chí trai là đây ta
ước nguyền.
Lời II:
Đoàn quân Việt Minh đi, sao vàng phất phới,
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than.
Cùng chung sức phấn đấu xây đời mới.
Đứng đều lên gông xích ta đập tan.
Từ
bao lâu ta nuốt căm hờn.
Quyết hy sinh đời ta tươi thắm hơn.
Dù thây phơi xương nát không sờn.
Tiến
mau ra sa trường. Tiến lên! Cùng thét lên!
Chí trai là đây, nơi ước nguyền
Bài này, sau khi Việt Minh cướp được chính quyền ngày 19 tháng 8 năm 1945
và Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập ngày 2 tháng 9 sau đó đã trở thành Quốc ca của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà rồi Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện tại. Trong hoàn cảnh mới, lời
ca đã được thay đổi. “Đoàn quân Việt Minh” đã được đổi thành “Đoàn quân Việt
Nam” và đặc biệt là câu “Thề phanh thây uống máu quân thù”, nghe có vẻ sắt máu
và đôi khi man rợ theo nhiều ngưòi nhận định cho một dân tộc tư coi là văn minh
của thời đại mới không có lợi cho các vận động tuyên truyền, đã được đổi thành
“Vì nhân dân chiến đấu không ngừng”…[24]Tuy nhiên, trước khi có những sự thay đổi này, đối chiếu với những gì
chính tác giả Văn Cao tiết lộ với nhà văn Nguyễn Thụy Kha năm 1991 như đã trình
bầy trên đây và như một “sự thực thứ ba” là “Khi
bài Tiến quân ca được công nhận là
Quốc ca Việt Nam, nó đã được sự góp ý về nhạc của anh Đinh Ngọc Liên và Nguyễn
Hữu Hiếu. Còn lời thì anh Tố Hữu đã sửa nhiều câu…” lời của Tiến
Quân Ca và luôn cả nhạc đã bị sửa ít ra là một lần chưa kể tới sự ít ra là
góp ý của Nguyễn Đình Thi và chắc chắn những chỉ dẫn của Vũ Quí. Tiếc rằng ông
đã không nói rõ hơn là những góp ý và những câu được sửa ấy là những câu nào,
đồng thời nguyên thủy do Văn Cao làm là như thế nào. Người ta cũng không được
rõ trong thâm tâm của ông lúc đó và sau này, Văn Cao đã có những cảm nghĩ gì
trước những sự “góp ý” và “sửa” đó. Đằng sau thái độ chấp nhận, vui vẻ,
thụ động, hãnh diện hay bất đắc dĩ đó, ông đã nghĩ gì? Nó có ảnh hưởng gì tới
những việc làm sau này của ông không? Nó có phải là một trong nỗi u uất ông
mang theo khi từ bỏ cõi đời này không? Lịch sử không bao giờ được biết. Có điều
sau khi ông mất một vài tác giả đã nói tới sự đau buồn của ông sau cái chết đầy
nghi vấn của Vũ Quí vào giữa tháng 9 năm 1945. Kể lại chuyện này, Phí Văn Bái
đã ghi: “Mỗi khi nhắc lại chuyện cũ, cũng như hôm nay anh cầm tấm ảnh đồng
chí Vũ Quý, nước mắt anh lại ướt đầm.”[25] Còn Nguyễn Thụy Kha, người có lẽ được nghe
Văn cao tâm sự nhiều hơn hết vì tác giả này đã viết cả một chùm 18 bài về nhạc
sĩ thiên tài nhưng bất hạnh này, trong “Văn Cao, Người Viết Quốc Ca”, thì nhận
xét về Văn Cao trong thời kỳ kháng chiến như sau
“Chín năm kháng chiến dằng dặc đi qua gia đình anh và cho anh hai đứa con
trai cùng sự nghiệp âm nhạc. Nhưng cũng chín năm ấy, lòng anh biết bao trăn
trở. Cái buồn đầu tiên mà anh vấp phải là cái chết khó hiểu của Vũ Quý - người
mà bằng mọi linh cảm, anh không tin có thể là người xấu. Mất Vũ Quý, anh cảm
thấy chống chếnh tinh thần biết bao. Rồi vết thương cũng thành sẹo. Nhưng lại
bao vết thương khác mưng tấy vì những xót xa trước nhiều điều mà khi hăng hái
nhập vào cách mạng, anh không cách gì nghĩ tới. Đã xen vào giữa những người từ
tế là nững kẻ cơ hội. Đau đớn nhất là chúng - những kẻ không của chúng ta lại
vẫn đang đàng hoàng đứng trong hàng ngũ chúng ta. Đứng vững và có quyền lực
nữa. Thế mới khó khăn!”[26]
Chưa hết. Sau này “Cho đến những ngày ở Hà Nội, mấy năm 1956-1957, trong văn
nghệ có nhiều sóng gió, anh Văn Cao có những vấp váp buồn bực.”[27] Những
sóng gió này ai cũng biết là vụ Nhân Văn
Giai Phẫm. Văn Cao đã không còn được phép sáng tác và nhạc của ông cũng
không còn được trình diễn nhưng người ta cũng cần phải hiểu là trong hoàn cảnh
đó ông cũng chẳng còn hứng khởi để làm gì. Hậu quả là “Hai mươi năm cuối
cuộc đời, Văn Cao chỉ viết vài ba bài hát, đấy là bài Mùa xuân đầu tiên (1975) và bài Tình ca trung du
(1984). Bài Mùa xuân đầu tiên ông viết sau ngày nước nhà thống nhất, khi cảm
xúc trào lên ào ạt ở những người khác, thì cảm xúc của ông lắng lại, bình thản
sau quá nhiều xáo trộn cuộc đời. Ông nhìn thấy mùa xuân dặt dìu theo én về, ông
lắng nghe tiếng “gà đang gáy trưa bên sông” và ông khẳng định rằng cái “mùa
bình thường” đã về. “Từ đây người biết quê người - Từ đấy người biết thương
người - Từ đây người biết yêu người”. Âm nhạc của ông vẫn đẹp, ấm và sang
trọng, thoát hẳn ra ngoài những bài hát reo vui lúc bấy giờ. Đó là bí mật tài
hoa riêng của ông. Bài hát liền sau đó được dịch và in ở Liên Xô. Chỉ tiếc rằng
hầu như nó chẳng được phổ biến trong đất nước của mình.”[28] Một hiện tượng hoàn toàn toàn trái ngược với
hiện tượng Phạm Duy ở miền Nam.
Đáp Lời Sông Núi của Trúc Hồ thoạt nghe có vẻ đơn giản hơn hai bài
trước, chỉ gồm có một điệu nhạc và một lời:
Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.
Tổ quốc lâm nguy! Xương máu này ta nguyện hiến dâng!
Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.
Quyết bảo vệ giang san! Ta thề chết cho quê hương!
Đây muôn triệu con tim! Đây muôn triệu khối óc!
Cũng dòng máu Việt Nam.
Đây Hưng Đạo Vương! (Hai Bà Trưng!) Đây Lý Lê Trần!
Bốn ngàn năm chưa một lần khuất phục ngoại xâm!
Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.
Tổ quốc lâm nguy, xương máu này ta nguyện hiến dâng.
Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.
Quyết bảo vệ giang san! ta thề chết cho quê hương!
Quyết bảo vệ giang san! từng tấc đất, từng cây cỏ
Từng phố phường, từng con đường, từng bờ biển quê hương!
Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam!
Nhưng khi
được hỏi, Trúc Hồ đã giải thích thêm là sự đơn giản, nhất là lời, chỉ là để cho
bài hát dễ hát còn thực sự về nhạc, nội dung không hoàn toàn như thế mà bao gồm
cả thảy bốn phần: phiên khúc, điệp khúc, đoạn nhạc tiếp nối (musical bridge) và
đoạn nhạc coda với những chi tiết như sau:
Phiên khúc:
Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.
Tổ quốc lâm nguy! Xương máu này ta nguyện hiến dâng!
Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.
Quyết bảo vệ giang san! Ta thề chết cho quê hương!
Điệp
khúc:
Đây muôn triệu con tim! Đây muôn triệu khối óc!
Cũng dòng máu Việt Nam.
Đây Hưng Đạo Vương! (Hai Bà Trưng!) Đây Lý Lê Trần!
Bốn ngàn năm chưa một lần khuất phục ngoại xâm!
Phiên khúc:
Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời
sông núi.
Tổ quốc lâm nguy, xương máu này ta nguyện hiến dâng.
Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.
Quyết bảo vệ giang san! ta thề chết cho quê hương!
Đoạn nhạc tiếp nối
(Musical Bridge):
Quyết bảo vệ giang san! từng tấc đất, từng
cây cỏ
Từng phố phường, từng con đường, từng bờ biển quê hương!
Đoạn nhạc coda:
Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam!
C. Đối tượng và khả năng hấp dẫn
Vì được sáng
tác trong những hoàn cảnh khác nhau, đối tượng được hướng tới của ba bài hát
khác nhau, từ đó lời hát và điệu nhạc cũng khác nhau, tính chất và khả năng lôi
cuốn người hát và người nghe cũng khác nhau
Đối tượng
của Tiếng Gọi Sinh Viên là sinh viên, là tập thể mà tác giả là một thành
phần, kể cả nếu theo lời kể của nhiều ngưòi cho rằng bài này khởi thủy là được
làm cho học sinh trường Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký khi tác giả còn theo
học trường này, nó vẫn là tập thể của chính tác giả. Nói cách khác, chính thức
hơn, bài hát này được Lưu Hữu Phước làm cho tập thể của chính ông, tâp thể sinh
viên Đại Học Đông Dương ở Hà Nội và được mang tên là Sinh Viên Hành Khúc với
tên tiếng Pháp là Marches
des Étudiants. Trong hoàn cảnh đó, ước mơ và hy vọng của Lưu Hữu
Phước cũng là ước mơ và hy vọng chung của tất cả mọi người trong tập thể chung
của ông. Chúng bắt nguồn từ hoàn cảnh sinh hoạt đương thời, từ học hành cho đến
chính trị, xã hội, văn hoá… trong đó quan trọng hơn cả là lịch sử oai hùng của
nhiều ngàn năm của dân tộc mà ông và những đồng bạn cùng quê hương Nam Kỳ, một
miền đất của quốc gia Việt Nam vốn từ lâu bị nhượng làm thuộc địa của người
Pháp, của ông, bất ngờ tìm lại được qua sách vở và qua những chuyến du ngoạn
thăm các di tích lịch sử ở xung quanh thủ đô Hà Nội. Sức lôi cuốn của Tiếng
Gọi Sinh Viên ngay từ những ngày đầu và ở toàn quốc, từ Bắc chí Nam,
bắt nguồn từ những yếu tố này. Lịch sử của dân tộc trực tiếp hay gián tiếp bàng
bạc trong khắp cả ba phần lời của bài hát, đặc biệt là phần thứ hai. Chúng
khích động người hát và đem họ lại gần nhau vì tác giả là chính họ, và họ là
chính tác giả, cả hai là một, không có sự khác biệt:
Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xóa!
Hùng cường Trời Nam ghi trên bảng vàng bia đá!
Lùa quân Chiêm nát
tan, thành công Nam Tiến luôn
(mau tiến lên),
Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn.
Hồ Tây tranh phong oai son phần,
Lừng tiếng Sát Thát, Trần Quốc
Tuấn.
Mài kiếm cứu quốc (nước) nhớ Người Núi Lam,
Trừ
Thanh Quang Trung giết hàng bao đám.
Nòi giống có khí phách từ xưa chớ
quên,
Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp
hương nguyền.
Trưòng hợp của Tiến Quân Ca, trái lại, hoàn toán khác hẳn. Nó
không được làm cho chính tác giả, dù cho trong hồi ký Văn Cao có nói tới “bóng
mấy người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh” hay “ngọn
lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt” hay việc ông “đang chờ nhận
một khẩu súng lục và được tham gia vào đội vũ trang”.[29] Những sự kiện này chỉ đến với Văn Cao
sau khi ông nhận lời của Vũ Quí “làm môt bài hát cho quân dội cách
mạng của chúng ta” và khi ông lang thang đi tìm “một cái gì để nói, một
âm thanh đầu tiên”. Cái gì để nói , âm thanh đầu tiên này lúc mới gặp Vũ
Quí trở lại, được Vũ Quí giao cho công tác, được nhận trợ cấp, có chỗ ăn cơm
tháng, chấm dứt cuộc đời lang thang, thất nghiệp và đói khát của ông, Văn Cao
không hề có. Quân đội cách mạng cho tới thời điểm đó chỉ mới là của Vũ Qui,
chưa là của Văn Cao. Quân đội cách mạng hay “Đoàn quân Việt Minh” sau
này trong Tiến Quân Ca lúc đó còn ở
tít trên chiến khu, Văn Cao chưa từng thấy, chưa nói tới chuyện ông có phải là
một đội viên của nó hay không. Chuyện ông nhận đươọc khẩu súng và được tham gia
vào đội vũ trang mới chỉ là chuyện ông đang chờ. Câu hỏi được đặt ra là nếu vậy
làm sao bài hát này lại được phổ biến nhanh như vậy? Câu trả lời rất đơn giản :
đó là nhờ guồng máy tuyên truyền của Việt Minh thời đó rồi sau này là của chính
quyền khi nó trở thành quốc ca của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do Hồ Chí
Minh làm Chủ Tịch. Nó cách khác, tác giả và đối tượng của Tiến Quân Ca
là hai chủ thể hoàn toàn khác biệt, không phải là một. Ngưòi hát cũng
vậy.
Không có cái may mắn của cả Lưu Hữu Phước và Văn Cao, Trúc Hồ khi làm Đáp
Lời Sông Núi không có một đối tượng rõ ràng như hai tác giả tiền bối của
ông. Khi tác giả mới lớn lên, từ các trường thuộc bậc tiểu học đến trường
Petrus Ký mà ông đã theo học, như đã nói ở trên, đều đã không còn nữa, kể cả
cái tên Petrus Trương Vĩnh Ký. Tên này sau năm 1975 đã bị thay thế bằng tên Lê
Hồng Phong lạ hoắc. Các thày cô cũ nhiều người cũng đã ra đi hay không còn được
dạy nữa. Họ đã bị thay thế bằng những thày cô từ miền Bắc vô, những người từ
lời nói, cách đối xử đến kiến thức và cách dạy khác hẳn các thày cô cũ. Người
ta không rõ là Trúc Hồ đã bị ngỡ ngàng, trơ trọi và cô đơn như thế nào, nhưng
chắc chắn những mất mát đầu đời này đã ám ảnh ông suốt đời, từ đó đã ảnh hưởng
tới âm nhạc của ông. Không còn trường và bạn học nhưng Trúc Hồ vẫn còn anh em,
bạn bè và nhất là vẫn còn những người thày dạy nhạc cũ. Mạnh hơn nữa là những
gì đã xảy ra ở Biển Đông trong thập niên đầu của thế kỷ 21, đặc biệt là sự săn
đuổi, bắt giữ đòi tiền chuộc, đánh đập, làm nhục các ngư dân Việt Nam của các
tầu hải tuần của Trung Cộng mà báo chí, truyền hình, truyền thanh và tin tức
trên mạng đã đến với người Việt gần như hàng ngày. Tất cả đã gợi lại
trong trí nhớ của mọi ngườì về cuộc xâm chiến Hoàng Sa năm 1974 và sau đó là
một số đảo ở Trường Sa vào năm 1988 của Trung Cộng. Theo Trúc Hồ tâm tình với
người viết, sự hy sinh của Hải Quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà và 74 chiến hữu của
ông cũng như sau này của 64 chiến sĩ Hải Quân khác, đã trực tiếp thúc đẩy ông
làm Đáp Lời Sông Núi. Ông đã không mở đầu bài hát của mình bằng lời kêu
gọi mà bằng lời rủ anh em, bạn bè thân thiết của mình và rộng hơn, những người
cùng trang lứa với mình ở bất cứ nơi nào trên thế giới hay ở Việt
Nam “đứng lên đáp lời sông núi!” như là một tập thể duy nhất: “Đáp lời sông
núi! Anh em ta đáp lời sông núi!” Giữa người rủ và người được rủ ở đây là một,
không có người kêu gọi và người được kêu gọi. Nói cách khác người làm bài hát,
người hát bài hát và người nghe bài hát đều là một. Mọi ngưòi hòa nhập với nhau
không có sự phân biệt giữa người nhắm và người được nhắm tới. “Anh em ta…!” so
với “Này sinh viên ơi!” tuy có giống nhau nhưng đã vượt xa hơn một bực. Không
dừng ở đó, Trúc Hồ vươn tới “muôn triệu con tim, muôn triệu khối óc cùng dòng
máu Việt Nam” hay trong một bài khác “ những trái tim gọi Việt Nam, những trái
tim cùng dòng máu”:
“Tựa vào
lòng nhau, ơi những trái tim gọi ViệtNam!
Tựa
vào lòng nhau, ơi những trái tim cùng dòng máu!”
( Một Ngày Việt Nam)
Khả năng hấp
dẫn hay hấp lực hay sự quyến rũ của Đáp Lời Sông Núi và đương
nhiên Tiếng gọi Sinh Viên nằm ở điểm này, điểm mà Tiến Quân Ca
không có. Đối tượng của bài hát của Văn Cao không phải là Văn Cao hay những
người chung quanh Văn Cao mà là một tập thể những người ông chưa bao giờ gặp
hay nhìn thấy. Lý do hoàn toàn đơn giản: ông đã làm theo “đơn đặt hàng”. Người
ta có thể viện dẫn những người “đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh” mà
ông đã bắt gặp khi đi lang thang tìm hứng sau khi nhận lời với Vũ Quí, hay
chuyện ông sắp nhận được khẩu súng “và được tham gia vào đội vũ trang”, coi như
là một danh dự và là niềm hãnh diện của ông, để biện minh phần nào, nhưng tất
cả vẫn chỉ là gượng ép. Đối tượng chính của bài hát của ông vẫn là những Đội
Tuyên Truyền Giải Phóng Quân mới đưọc thành lập ở một nơi xa tắp nào đó, trên
tận chiến khu. “Đoàn quân Việt Minh đi…” chỉ là do trí tượng của ông cũng như
“bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa” của họ. Không thấy họ, Văn Cao
không thể nào kêu gọi họ. Họ đã có trước rồi nên ông chỉ có thể ngưỡng mộ họ và
ca ngợi họ bằng những lời lẽ mà những cán bộ tiếp xúc với ông và giao công tác
cho ông đã hướng dẫn cho ông như “cứu quốc”, “cờ in máu”, “chiến khu”, “phanh
thây uống máu quân thù”, “sao vàng phất phới”… thay vì bằng những ngôn từ đẹp,
đầy lãng mạn tính và nặng về hoài cổ của Buồn Tàn Thu, Thiên Thai, Suối Mơ,
Trương Chi, hay ít ra là Thăng Long Hành Khúc… của ông trước
đó.
Văn Cao cũng
không dành cho lịch sử một chỗ đứng trong bài hát của ông, bài hát cho quân đội
cách mạng. Lý do phải chăng là vì đối tượng chính phải là cách mạng, phải mang
chiến đấu tính, phải có quân thù, giết quân thù và chiến thắng quân thù… và
nhất là phải bỏ lại sau lưng những cái cũ. Cũng là chiến đấu cho người Việt Nam
nhưng ông không hề nhắc tới truyền thống hào hùng ngàn năm của Dân Tộc Việt
Nam. Những tên tuổi quen thuộc đối với giới trẻ đương thời như Hai Bà Trưng, Bà
Triệu, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lý Thường Khiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang
Trung…, những địa danh như Mê Linh, Sông Hát, Bạch Đằng, Chi Lăng Đống Đa… mà
Lưu Hữu Phước, Hoàng Quí, Thẩm Oánh, Lê Thương và nhiền nhạc sĩ thuộc thế hệ
sau của ông trân trọng ngợi ca hoàn toàn không được nhắc tới trong bài hát này
của ông. Tất cả đều phải chăng không cần thiết, nếu không nói là không được nói
tới vì đoàn quân Việt Minh là đủ và là khởi đầu. Sau này, qua Đàn Chim Việt,
Chiến Sĩ Việt Nam. Bắc Sơn, Làng Tôi, Sông Lô, Ngày Mùa, Tiến Về Hà Nội, Ca
Ngợi Hồ Chủ Tịch, Không Quân Việt Nam, Hải Quân Việt Nam… các tên tuổi của
Lịch Sử Việt Nam và các địa danh liên hệ, sau Thăng Long Hành Khúc,
Gò Đống Đa hoàn toàn vắng bóng, nhường chỗ cho những tên lần đầu tiên
xuất hiện như Đô Lương, Bắc Sơn, Thái Nguyên, Hồ Chủ Tịch, Già Hồ…
Lưu Hữu
Phước và Trúc Hồ hoàn toàn trái ngược với Văn Cao. Hai nhạc sĩ này đã lấy lịch
sử của dân tộc làm khởi đầu và là nguồn căn bản cho những sáng tác của mình.
Như đã nói ở trên, cuộc đời sáng tạo về âm nhạc của Lưu Hữu Phước bắt đầu bằng
sự khám phá ra quá khứ của tổ tiên xa xưa nhất của ông, ngay từ ngày ông còn là
học sinh ở Saigon, sau đó là khi ông cùng với các bạn sinh viên cùng quê hương
Miền Nam với ông thăm viếng những di tích lịch sử ở miền Bắc, nơi phát xuất của
dân tộc ông. Nói cách khác tất cả đdã khỏi đầu khi hồn thiêng của sông núi và
anh linh của tổ tiên của dân tộc đã trỗi dậy trong lòng ông. Ba lời ca của Tiếng
Gọi Sinh Viên sau này đã trở thành những bài học lịch sử mà không ít những
người dạy lịch sử, văn hóa và đạo đức dân tộc cho tuổi trẻ Việt Nam ở Hải Ngoại
đã dùng. Tất cả những tên tuổi lớn của nhiều ngàn năm của lịch sử dân tộc kể
trên đều được trực tiếp hay gián tiếp làm sống lại trong những lời ca này, bên
cạnh những danh xưng khác như Hồ Tây, Núí Lam…
Lịch sử Việt
Nam và các tên tuổi lớn của quá khứ đấu tranh để bảo vệ đất nước, vinh quang và
sự trường tồn của dân tộc cũng là nguồn cảm hứng mạnh mẽ và phong phú cho Trúc
Hồ khi người nhạc sĩ trẻ tuổi của Cộng Đồng Việt Nam ở Hải Ngoại này làm những
bài ca cho quê hương của mình, mà Đáp Lời Sông Núi chỉ là điển hình. Tất
cả đã bắt đầu bởi hai tiếng Việt Nam. Phải dời Việt Nam ra đi từ thời còn nhỏ,
sống xa lìa quê hương, xóm làng, cha mẹ, thày cô, bạn bè…hai tiếng Việt Nam đã
trở thành một ám ảnh không dời đối với ông. Trong Đáp Lời Sông Núi, Việt
Nam đã được ông nhắc tới bốn lần, một lần ở giữa bài và ba lần liên tiếp được
lập lại để kế thúc. Tên Việt Nam cũng được ông dùng trong nhan đề của nhiều bài
hát khác của ông như Một Ngày Việt Nam, Bước Chân Việt Nam, Con Đường Việt
Nam và trong nội dung của phần lớn các bài hát của ông. Đối với ông
cũng như đối với Trầm Tử Thiêng, Việt Dũng, Anh Bằng…, những đồng tác giả với
ông cho nhiều bài hát, Việt Nam là hai tiếng thiêng liêng gắn liền với cuộc đời
tị nạn của ông. Trúc Hồ đã gửi tới người hát, người nghe và có thể chính mình
lời nhắn nhủ “dù nhục, dù vinh, xin hãy hát vang lời Việt Nam” để “Bạn hãy cùng
tôi! Bước theo ngọn đuốc Việt Nam!”
Cuối cùng,
qua Tiến Quân Ca, người ta thấy Văn Cao đã không mở ra được một viễn
ảnh, không đem lại một ánh sáng mới, một chân trời mới cho những chiến sĩ của
đoàn quân Việt Minh, chưa nói tới đồng bào đương thòi của họ, đất nước và dân
tộc của họ. Ông chỉ kêu gọi họ “thề phanh thây uống máu quân thù”, “thắng gian
lao”, “lập chiến khu” để rồi “tiến lên cùng thét lên!” vì “chí trai” là ở đó,
“là đây nơi ước nguyền”. Cái đích cuối cùng mà ông vạch ra cho họ là ở đó, ước
nguyền mà ông nó lên cho họ là ở đó, ở chiến khu để họ mãi mãi tiến lên cùng
thét lên... Chấm hết! Tất nhiên là ở giai đoạn Văn Cao viết Tiến Quân Ca
như một người nhìn từ bên ngoài và cho giai đoạn ông được yêu cầu sáng tác và
sáng tác theo chỉ thị, ông không thể làm hơn được. Nhưng về sau này, vì bài hát
đã trở thành quốc ca nên định mệnh của dân tộc cũng nằm ở đó, ở chiến khu,
chiến khu từ sau khi nó trở thành quốc ca và cả nước trở thành chiến khu ngay
từ cuối năm 1946, rồi liên tiếp sau nhiều thập niên tiếp theo, có thể luôn cả
đến những ngày hiện tại, trong tương lai gần, khi người ta, một lần nữa, nói
tới hiểm họa mất nước, hiểm họa đến từ ngoài khơi hay hiểm họa xảy ra ngay trên
đất liền, cuối cùng vẫn chỉ là chiến khu, là nơi “chí trai” của người Việt đã
“ước nguyền”, đến độ hậu duệ của ông, Trúc Hồ và Trầm Tử Thiêng phải lên tiếng
thê thảm kêu than:
Từng vòng tử sinh quay thấm thoát cũng vài ngàn năm.
Nhiều lần nằm mơ, Ôi đất nước bao lần đổi mớí!
Bằng cuộc bể dâu,
Xương trắng vẫn cao nghệu thành non,
Dòng máu vẫn tuôn trào thành sông.
Chưa thấy bóng thanh bình một lần.
Lưu Hữu Phước và những đồng tác giả của ông hiền lành hơn, bình thường
hơn, chỉ kêu gọi tập thể sinh viên “đứng lên đáp lời sông núi”, cùng nhau đồng
lòng “mở đường khai lối” cho đồng bào , đừng quên khí phách của tiền nhân với
ưóc mong một “ngày vẻ vang” sẽ đến để người nước Nam vang tiếng đến “muôn đời”.
Ước vọng chung của họ là đất nước quang vinh và trường tồn. Sau này khi trở
thành quốc ca, ước vọng này được nêu lên một cách rõ rệt hơn với hai câu ba và
bốn được đổi thành
“Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.”
hầu làm cho
“Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời”
Ngoài ra một chi tiết ta không cũng nên bỏ sót là khi Tiếng Gọi Sinh Viên
được đổi thành quốc ca, hai câu “Hồn thanh xuân như gương trong sáng, đừng tiếc
máu nóng tài xin ráng!” đã được đổi thành “Dù cho phơi thây trên gươm
giáo, thù nước lấy máu đào đem báo.” Qua hai câu được đổi thành này “thây” và
“máu” đã được nói tới nhưng thây và máu ở đây không đồng nghĩa với thây và máu
trong Tiến Quân Ca, không phải thây và máu của quân thù mà là thây và
máu của chính người công dân đổ ra để bảo vệ quê hương, đất nước, để làm “tươi
thắm cỏ hoa” trên cánh đồng chung của cả dân tộc, như Hùng Lân, một nhạc sĩ
đồng thời với Văn Cao và Lưu Hữu Phước, đã viết trong Việt Nam Minh Châu
Trời Đông của ông, “Non sông như gấm hoa uy linh một phương” và như
lối nói bình thường trong ngôn ngữ quen thuộc của người Việt “đem máu xương xây
đắp sơn hà” hay đem máu đào tô thắm non sông”…
Trong Đáp Lời Sông Núi, Trúc Hồ không nói lên ước vọng của mình
cũng như ước vọng chung của cả dân tộc so với Lưu Hữu Phước trong Tiếng Gọi
Sinh Viên. Điều này không có gì khó hiểu. Đáp Lời Sông Núi ở đây là
lời kêu gọi khẩn cấp để đáp ứng cho một tình trạng khẩn cấp và kêu gọi từ Hải
Ngoại trước nạn ngoại xâm mới xảy ra ở Biển Đông. Trong những bài hát khác,
người nhạc sĩ thuộc thế hệ một rưỡi của Cộng Đồng Người Việt Di Tản đã
nói lên ước vọng đó, ước vọng Tự Do, Công Bình, Nhân Ái, ước vọng nước Việt
ngày mai ngời sáng. Điển hình là bài Thiên Thần Trong Bóng Tối mà người
viết ghi nguyên văn dưới đây, thay cho phần kết luận:
Từ khi tôi chào đời, bập bẹ hai tiếng
Việt Nam.
Yêu quê hương qua từng trang sách,
Hùng Vương, Phù Đổng rạng ngời.
Trải qua bao thời đại thăng trầm theo những buồn vui.
Quê hương sau ngày lửa khói, tự do hạnh phúc xa vời.
Bạn hãy cùng tôi, thắp lên ngọn đuốc Việt Nam!
Tình Yêu, Tự Do, Công lý, bình an hạnh phúc cho người!
Bạn hãy cùng tôi bước theo ngọn đuốc Việt Nam!
Niềm tin ngày mai tươi sáng, hiến dâng cuộc sống cho đời!
Những thiên thần trong bóng tối,
Mang ánh sáng vào nơi tối tăm,
Mang tình yêu xóa tan hận thù,
Mang tự do công bình nhân ái,
Cho Việt Nam ngày mai ngời sáng!
Phạm Cao
Dương
California
những
ngày trở lạnh sau Tết Ma Quỷ 2011
Chú Thích
[1] “Các vua Hùng đã có công
dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.” Ủy Ban Khoa Học Xã
Hội Việt Nam, Viện Khảo Cỏ Học, Hùng Vương Dựng Nước.Tập IV. Hà Nội:Nhà
Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1974, Lời Mở Đầu, tr. 7.
[2] Trúc Hồ. Đáp Lời Sông
Núi, CD . Garden Grove, CA: Asia Entertainment Inc, 2010. CD này gồm tổng
cộng 14 ca khúc và Đáp Lòi Sông Núi là bài đầu tiên. Hầu hết những bài
hay đoạn hát của Trúc Hồ được trích dẫn trong bài là lấy từ CD này.
[3] Lưu Hữu Phước. Âm Nhạc
và Cuộc Sống.Saigon: Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, 1988, tr. 14.
[4] - nt -
, tr. 15-16.
[5] Bằng cớ là khi bài
này được viết thì CD Hùng Ca Sử Việt cũng được Asia Entertainment phát
hành (tháng 10 năm 2011) và đã được phổ biến mau chóng. Trong CD này Lưu Hữu
Phước đã có ba bài là Hội Nghị Diên Hồng, Bạch Đằng Giang và Quốc Ca Việt
Nam. Trong CD 15 Thanh Niên Hành Khúc do Phạm Hông Đảnh, một
cựu giáo sư và cựu học sinh Trung Học Petrus Ký thực hiện (Sanata Ana, CA,
2001), Lưu Hữu Phước có bốn bài là Tiếng Gọi Sinh Viên, Thiếu Sinh
Hành Khúc, Khúc Khải Hoàn, Lên Đàng; Hoàng Quý có ba bài là Tiếng
Chim Gọi Đàn, Nước Non Lam Sơn, Bóng Cờ Lau; Hùng Lân có hai bài là Khoẻ
Vì Nước, Cô Gái Việt trong số tổng cộng 16 bài.
[6] Lưu Hữu Phước, đã dẫn,
tr. 20
[7] -nt-, tr.21.
Nhiều ngưòi, kể cả người viết, cho đến khi bài này được viết cũng còn nhớ
như vậy. Ngoài ra trong thời Chính Phủ Trần Trọng Kim với Luật Sư Phan Anh làm
Bộ Trưởng Thanh Niên, các học sinh đã được dạy hát ba
bài này vói câu mở đầu là “Này thanh
niên oi!” thay vì “Này sinh viên ơi!” thích hợp hơn. Cũng nên nhớ la trong thời
này một trường huấn luyện thanh niên đã được thành lập ở Huế với danh xưng
Trường Thanh Niên Tiền Tuyến, còn ở trong Nam thì tổ chúc Thanh Niên Tiền Phong
cũng xuất hiện sau đó. TiếngGọi Thanh Niên đã trở thành đoàn ca của tổ
chức này.
[8] Nguyễn Ngọc Huy. Quốc Kỳ
và Quốc Ca Việt Nam. Garden Grove, CA: Blue Tech Copy and Technology, ? Tài
liệu cấm bán, tr. 26-28. Nguyễn Tôn Hoàn. ‘Kỷ Niệm Thời Niên Thiếu, Trích Hồi
Ký Nguyễn Tôn Hoàn”, trong Đặc San Áo Trắng, Xuân Quý Dậu 1993, tr.
19-20.
Về lời ca bằng tiếng Pháp, Marche des Étudiants, vì Đại Học Hà Nội là
đại học chung cho cả ba xứ Đông Dương, Việt, Mên, Lào nên lời ca là cho sinh
viên của cả ba xứ, danh xưng Indochine đã được dùng ở đây. Nguyên văn như
sau
Étudiants! Du sol l’appel
tenace
Pressant
et fort, retentir dans l’espace.
Des
côtes d’Annam aux ruines d’Angkor,
À travers les monts,
du Sud jusqu’au Nord,
Une voix monte ravie:
Servir la chère
Patrie
Toujours sans
reproche et sans peur
Pour rendre l’avenir
meilleur.
La joie, la ferveur,
la jeunesse
Sont pleines de fermes promesses
Refrain:
Te
servir chère Indochine
Avec
coeur et discipline
C’est
notre but, c’est notre loi
Que rien n’ébranle notre foi.
[9] Nguyễn Ngọc Huy, -nt-, tr.
28. Nguyễn Tôn Hoàn, -nt-, tr. 19.
[10] Phạm Cao Dương truyện trò
riêng với Trúc Hồ, tháng 10 và 11 năm 2011.
[11] -nt-
[12] Đó là vụ ông ám sát
Đỗ Đức Phin, một nhân vật bị coi là thân Nhật thời bấy giờ. Sự kiện này đã được
Vũ Trọng Khánh, nguyên thị trưởng (Đốc Lý) Hải Phòng thời Chính Phủ Trần Trọng
Kim và Bộ Trưởng Tư Pháp trong Chính Phủ Lâm Thời Hồ Chí Minh, nhắc tới
trong hồi ký của ông. Vũ Trọng Khánh, “Tôi Làm Thị Trưởng Hải Phòng”
(Trích Hồi Ký Vũ Trọng Khánh), trong Vũ Đình Hoè, Thanh Nghi, Hồi Ký.
Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn Học, tr. 501. Nơi xảy ra vụ ám sát là một
tiệm hút và được Vũ Bằng kể lại nguyên văn như sau:
“Ngay sau đó vài ngày, ai cũng nói là Văn Cao là người đã bắn chết Phin. Theo
lời thuật lại của các anh em ‘tự nhận là biết rõ hết cả đầu đuôi chi tiết vụ
này’, Văn Cao lúc đó đã bí mật hoạt động cho Việt Minh vào tiệm hút của Phin từ
lâu và đã nghiên cứu rất kỹ càng giờ giấc và thói quen của Đỗ Đức Phin là như
thế nào. Lúc ấy Phin bị coi là làm mật thám cho phát xít Nhật. Hôm xảy ra vụ ám
sát, Văn Cao nằm một cái giường ngay sát giường của Phin. Đợi Phin hút xong
xuôi rồi, nằm lơ mơ, Văn Cao gọi: “Phin ơi’, Phin quay lại xem có gì xảy ra thì
Văn Cao nói tiếp: ‘Phin ơi, tao giết mày’. Bắn xong, Văn Cao đứng dậy đi ra,
nhảy lên một chiếc xe đạp đi thong thả một chút rồi ở trong tiệm người ta mới
hô hoán Phin bị bắn.
“Một vài người khác, cũng là dân hút và cũng ở Hải Phòng lúc đó, lại nói khác
đi một chút. Theo họ, Văn Cao không nằm hút ở giường cạnh Phin. Người nằm ở sau
Phin tên là L., con một ông thư ký bưu điện. Phin hút xong, ngồi dậy ăn cái
bánh xong nằm hút thì từ cầu thang Văn Cao và một thanh niên nữa bước lên đứng
chắn lối đi. L. đương nằm ngồi dậy chuẩn bị, đồng thời từ trên mái nhà có hai
người nữa leo ống máng xuống đứng dự kiến và phòng ngừa những bất trắc xảy ra.
Văn Cao rút lấy bản ‘cáo trạng’ đọc cho Phin nghe, kết tội Việt gian của Phin.
Xong xuôi, L. bắn hai phát, Phin chết liền tại chỗ’
“Về cái chết của Phin, ngay hồi đó có hai giả thuyết như vậy về Văn Cao. Tuy
nhiên, dù L. bắn hay Văn Cao bắn, ai cũng yên trí là Văn Cao đã thủ vai chính
trong vụ này. Cái tên Văn Cao nổi bật lên từ đó. Đối với các anh em văn nghệ,
và một số anh em nói cho đúng, đã lấy làm hãnh diện về điểm đó.
“Sau ngày 19/8 tiếng Văn Cao nổi như cồn.”
Vũ Bằng, “Văn Cao - Một Nghệ Sĩ Tài Hoa”, trong Văn Cao: Cuộc Đời và Tác
Phẩm”, đã dẫn, tr. 178-179.
Nguyễn Thụy Kha, trong bài “Văn Cao, Người Viết Quốc Ca”, cũng
in trong Văn Cao: Cuộc Đời và Tác Phẩm kể trên, viết vào mùa Xuân
năm 1995, không ghi rõ nguồn gốc, đã viết như sau:
“Đêm cuối xuân 1945. Gió rét. Hải Phòng chìm trong bóng tối. Một thanh niên
nhỏ nhắn lạ mặt xuất hiện ở ‘vườn hoa đưa ngưòi’. Không ai biết đấy là Văn Cao.
Cải trang từ Hà Nội, khi về Hải Phòng ập vào nhà Doãn Tòng, không ai nhận ra Văn
Cao. Đêm nay, vẫn hình thù ấy, mặt mũi ấy, Văn Cao đến ‘vườn hoa đưa người’
trong ngực giấu một khẩu Côn to và một khẩu Brao-ninh nhỏ xíu. Khẩu Côn to là
của Nguyễn Đình Thi giao cho, khẩu Brao-ninh thì do một nhà tư sản có cảm tình
với cách mạng dự trữ.
“Văn Cao ngồi xuống ghế đá. Đêm nay là đêm quyết định số phận tên Việt gian
thân Nhật Đỗ Đức Phin. Ngưuời liên lạc chua tới. Phải gặp anh mới biết Đỗ Đức
Phin đêm nay ở đâu. Người liên lạc là Trần Khánh, chú bé có giọng hát tuyệt hảo
đã từng hát bao nhiêu bài của Văn Cao. Trần Khánh là em ruột Trần Liễn, bạn
cùng tiểu học với Văn Cao. Văn Cao chợt mỉm cười một mình….”, tr. 403.
“Hồi ấy, sau khi bắn chết Đỗ Đúc Phin, Văn Cao phóng xe về nhà Doãn Tòng rồi
cải trang ra đi truớc khi thành phố thiết quân luật. Đời người thanh niên vũ
trang đi từ (?) sang cuộc ám sát khác. Sau đấy bắt trượt Cung Đình Vận ở gần
rạp hát cuối phố Huế. Rồi lại sau đó…”, tr. 404
Ba chấm lửng của Nguyễn Thụy Kha khiến người đọc không khỏi
không nghĩ tới những cuộc ám sát giết người khác mà Văn Cao đã thực hiện hay dự
phần.
Về khẩu Côn mà Văn Cao sử dụng thì chính Nguyễn Đình Thi đã xác nhận . Nhà văn
này kể: “Một buổi chiều, người bạn làm liên lạc đã đưa tôi đến nơi Văn Cao ở
tạm, trên một căn gác nhỏ, nghèo, gần ngã tư đầu Khâm Thiên. Trong bóng tối
chạng vạng, chúng tôi thấy nhau cùng đói dài, gầy guộc, đen xạm. Chúng tôi chụm
đầu lầm rầm bàn những công việc mới gấp rút. Tôi đưa Văn Cao một khẩu súng lục
mà tôi vùa được một anh em cảm tình ủng hộ cho, tôi biết ngoài việc làm báo anh
còn ở trong ‘Đội Danh Dự’ Việt Minh.” Nguyễn Đình Thi, “Chào Anh Đi Xa!”,
trong Văn Cao: Cuộc Đời Và Tác Phẩm, đã dẫn, tr. 296-297.
[13] Văn Cao. “Tôi viết Tiến
Quân Ca”, trong Một Chặng Đường Văn Hóa, Tập Hồi Ức và Tư Liệu về Đề
Cương Văn Hóa Của Đảng và Đời Sống Tư Tưởng Văn Nghệ, 1943-1948, tr.
109-110. Văn Cao. “Tại Sao Tôi Viết Tiến Quân Ca”, trong Văn Cao: Cuộc
Đời Và Tác Phẩm. Hà Nội; Nhà Xuất Bản Văn Học, 1998, tr. 86-92.
[14] -nt-
[15] -nt-
[16] -nt-, tr.
110-111
[17] Ngô Vĩnh Bình. “Nhà
văn Nguyễn Đình Thi Nhớ Lại Không Khí Ra Đời Bài Hát Diệt Phát Xít”, trong Một
Chặng Đường Văn Hóa, đã dẫn, tr. 108.
[18] Theo Phí Văn Bái thì vào
lú đó Vũ Quí là quyền Bí Thư Thành Ủy Hà Nội của Thanh Niên Cứu Quốc thuộc mặt
Trận Việt Minh và Ủy Viên Ban Cán Sự Thành Ủy Hà Nội của Việt Minh, còn
Lê Quang Đạo Bí Thư Ban Cán Sự
[19] Nguyễn Thụy Kha.
“Văn Cao Vui Và Buồn Sang Tuổi Cổ Lai Hy”, trong Văn Cao, Cuộc Đời Và tác
Phẩm, đã dẫn, tr. 423-429. Bài phỏng vấn do Nguyễn Thụy Kha ghi đề ngày 7
tháng 10 năm 1991.
[20] Nguyên văn toàn thể bài
nhái như sau:
Đoàn quân Việt Mình đi, xe nhà Phất phới.
Dắt họ hang làng nước ra làm quan.
Cùng chung sức phá két xây nhà mới
Đứng đều lên may vá cho thật sang.
Từ bao lâu ta
nuốt cơn thèm.
Võ trang đâu lên đường! Hỡi ai, long chớ quên,
Bắc Sơn cùng Đô Lương, Thái Nguyên.
Ngoài ra khi quân Tàu của Tưởng Giới Thạch kéo sang để tước khí giới của quân
đội Nhật , một bài hát nhái khác cũng được đặt ra, nguyên văn như sau:
Đoàn quân Tàu Ô đi, sao mà ốm thế!
Bước chân phù lang thang trên nước Việt Nam.
Cờ sao trắng rách nát như tầu lá.
Đứa nào sang không ốn cũng què lê…
[21] Nguyễn Ngọc Huy, đã dẫn,
tr.26-27, Nguyễn Tôn Hoàn, đã dẫn. tr. 23-24.
[22] Nguyễn Tôn Hoàn, tr.
19.
[23] Nguyễn Ngọc Huy, mặt bìa
sau.
[24] “Tiến Quân Ca”, trong
Văn Cao, Cuộc Đời và Tác Phẩm, đã dẫn, tr.111-112.
[25] Phí Văn Bái, đã dẫn,
tr. 171.
[26] Nguyễn Thụy Kha, “Văn Cao,
Người Viết Quốc ca”, trong Văn Cao, Cuộc Đời và Tác Phẩm, đã dẫn,
tr. 406-407.
[27] Nguyễn Đình Thi, “Chào Anh
Đi Xa!”, trong Văn Cao, -nt-, 298.
[28] Nguyễn Trọng tạo, “Ba Biến
Khúc Của Văn Cao”, trong Văn Cao, -nt-, tr. 279.
--:o0o:--