Phát
Triển và Dân Chủ
Có đồng hành không?
Trần Bình 
Điều được nhìn nhận chung là cởi mở kinh
tế theo đường lối thị trường để phát triển sẽ kéo theo cởi mở chính trị và đất
nước sẽ được dân chủ hóa.Tuy nhiên thực tế có khi không phải vậy. Lấy trường hợp
Việt Nam: cuối thập niên 1980 trước sự sụp đổ của hệ thống cộng sản trên toàn
thế giới và nền kinh tế Việt Nam đang kiệt quệ, đảng Cộng sản Việt Nam đã thực
hiện chính sách đổi mới, áp dụng kinh tế thị trường để sống còn, nhưng cho đến
giờ này sau 19 năm đổi mới chế độ chính trị tại Việt Nam vẫn chưa dân chủ hóa được
bao nhiêu. Trung quốc đổi mới sớm hơn, đến nay đã được 25 năm và đang đưa Trung
quốc vào ngưỡng cửa của một siêu cường, thế nhưng Trung quốc không thấy tiến
gần hơn đến một chế độ dân chủ.
Tại sao sự phát triển kinh tế
không nhất thiết đưa đến dân chủ? Để trả lời câu
hỏi này hai giáo sư Bruce Bueno de Mesquita (khoa trưởng Khoa Chính trị học đại
học New York University và là thành viên của nhóm nghiên cứu thuộc viện Hoover và
George W. Downs, giáo sư chính trị học kiêm khoa trưởng khoa Khoa học Nhân văn
cũng tại đại học New York University viết trong bài “Development and Democracy” đăng trên tạp chí Foreign Affairs số
tháng Chín và tháng Mười năm 2005 lập luận rằng một quốc gia không thể tiến tới
dân chủ khi người cầm quyền (độc tài) biết cách cho cởi mở ở chỗ nào để không
ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và không cho cởi mở ở những khâu căn bản
nào đối lập có thể khai dụng để thành lập và xây dựng một lực lượng đối lập có
thể tranh giành quyền hành với nhà độc tài thúc đẩy tiến đến một thể chế dân
chủ.
Cái nhìn của hai giáo sư Bruce Bueno de Mesquita và George W. Downs
có thể giúp giải thích tại sao sau 19 năm cởi mở kinh tế, đối lập Việt Nam vẫn
chưa tổ chức được. Ngoài việc bít tất cả các cửa ngõ dẫn vào dân chủ như quyền
tự do báo chí, tự do lập hội, tự do thông tin (qua internet), người cầm quyền còn
có mọi phương tiện trong tay để mua chuộc nơi nào cần mua chuộc. Thí dụ nắm
quyền nhà đất trong tay, chính quyền có thể cung cấp
một ngôi nhà thật đẹp để bịt miệng một cán bộ có công với đảng nay trở thành
đối lập như trường hợp tướng Trần Văn Trà với Câu lạc bộ kháng chiến trong thập
niên 1990. Nắm quyền cho ở hay đi, chính quyền có thể cấp một chiếu khán xuất
ngoại để làm cho ngòi bút một nhà văn chống đảng trở nên nhẹ nhàng hơn như
trường hợp nhà văn Bùi Ngọc Tấn (so sánh hai cuốn “Chuyện kể năm 2000” in đầu
năm 2000 và cuốn “Viết về Bè Bạn” in năm 2005 của Bùi Ngọc Tấn). Phối hợp với
một nước bạn có cùng quyền lợi chiến lược như Hoa Kỳ chính quyền Hà Nội có thể để
cho đối lập công khai xuất hiện trong một thế bị kềm chế nào đó (như khi để họ đến
dự buổi tiếp tân nhân ngày lễ độc lập của Hoa Kỳ tại tòa lãnh sự Hoa Kỳ ở
Sàigòn). Đối lập xuất hiện nhưng đối lập phải giải quyết những vấn đề nội bộ
đôi khi không đơn giản (như chúng ta đã thấy qua trao đổi giữa tiến sĩ Nguyễn
Thanh Giang và nhà văn Hoàng Tiến) và quan trọng hơn là từ đây đối lập không
phải chỉ đương đầu với nhà cầm quyền Hà Nội mà còn phải đương đầu hay thỏa hiệp
với những đòi hỏi của Hoa Kỳ. Có thể với sự thỏa thuận của Hà Nội, Hoa Kỳ vừa là
cái dù vừa là cái thắng của đối lập Việt Nam.
Sau khi tham dự cuộc tiếp tân có tính lịch sử tại Sàigòn trong
tháng 7 năm 2005 và nhất là sau khi ông Hoàng Minh Chính người cầm đầu Phong Trào
Dân chủ Việt Nam, một phong trào đối lập trong nước vừa tự công khai xuất hiện,
được phép đến Hoa Kỳ chữa bệnh đã chính thức phát biểu (qua điện thoại viễn
liên vì lý do sức khỏe) trước đại hội lần thứ 7 của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt
Nam tại Little Sàigòn hôm 2 tháng 9, năm 2005 đối lập Việt Nam đã bước vào một
giai đoạn mới.
Bài nghiên cứu của hai giáo sư Bruce Bueno de Mesquita và George W.
Downs mà tôi lược dịch những điểm chính sau đây cho chúng ta thấy Hà Nội có
nhiều phương tiện vật chất và cơ mưu để trói tay hoạt động của đối lập.
Biết vậy để tìm cách đối phó
và tồn tại. Nếu không đối lập sẽ như một
tảng băng xinh đẹp 
phút chốc tan biến dưới ánh mặt trời chói chang.
________
 
Development
and Democracy
(by
Bruce Bueno de Mesquito & George W. Downs)
Foreign Affairs – September/October 2005
            
Hai mươi lăm năm trước khi Đặng Tiểu Bình bắt đầu cởi mở kinh tế tại
Trung quốc, tây phương tiên đoán rằng trước sau Trung quốc cũng phải cởi mở chính
trị. Người ta tin rằng cởi mở kinh tế tất sẽ dẫn đến cởi mở chính trị và do đó đất
nước sẽ được dân chủ hóa, và điều này sẽ đúng ở bất cứ nơi nào chứ không riêng
gì Trung quốc. Lập luận này dựa trên căn bản là sự phát triển kinh tế sẽ sinh
ra một tầng lớp trung lưu có óc kinh doanh và có kiến thức. Tầng
lớp này trước sau cũng đòi quyền quản lý số phận của mình và chính quyền nào –
dù là một chính quyền độc tài – cũng phải nhượng bộ.
Người ta dựa vào sự kiện là trên thế giới hiện nay những nước giàu
nhất đều là những nước dân chủ để biện minh cho lập luận trên. Tuy nhiên,
lịch sử đang diễn ra cho thấy vấn đề không đơn giản như vậy. Hình như cái gạnh nối giữa phát triển kinh tế và dân chủ không phải
là điều tất yếu. Nhiều chế độ độc tài trên thế giới
cho thấy rằng họ có thể làm cho đất nước phát triển kinh tế nhưng vẫn dìm được
dân chủ. Hai thí dụ dễ thấy nhất là Trung quốc và Liên bang Nga. Trong 25 năm qua kinh tế Trung quốc phát triển vượt bực nhưng dân
chủ vẫn dậm chân tại chỗ. Tại Liên bang Nga gần
đây kinh tế khởi sắc nhưng đồng thời bàn tay của Kremlin thắt chặt hơn đối với
các thế lực chính trị khác. 
Như vậy tại các nước độc tài sự phát triển kinh tế chẳng những không
giúp thúc đẩy đến dân chủ mà đôi khi còn làm cho chính quyền vững mạnh thêm. Ông Triệu Tử Dương, thủ tướng
Trung quốc trong thập niên 1980 có nói: “Dân chủ là điều mà một chế độ xã hội
không thể tránh được” Nhưng trong nửa thế kỷ qua có quá nhiều thí dụ trên thế
giới cho thấy người cầm quyền các chế độ độc tài có nhiều cách để làm chậm bước
của dân chủ để bám lấy quyền hành.
Động lực nào làm cho dân chủ không song hành với phát triển? Đó là do sự ứng xử khôn khéo
của những nhà độc tài. 
Những người chủ
trương thuyết “phát triển ắt đưa đến dân
chủ” tin rằng kinh tế phát triển làm lợi tức đầu người tăng và khi đầy đủ vật
chất người ta có khuynh hướng đòi hỏi quyền chính trị. Nhưng họ
quên rằng nhà độc tài có khả năng và phương tiện để trì hoãn sự đòi hỏi này, và
càng ngày họ càng tỏ ra xuất sắc về biệt tài bóp chết dân chủ.
Nhà độc tài nhìn phát triển kinh tế như một cây dao hai lưỡi. Một mặt nó giúp củng cố chế độ
vì nó giúp chính phủ thu thuế nhiều hơn và cho nhà độc
tài nhiều phương tiện để đương đầu với một số vấn đề (thí dụ như suy thoái kinh
tế hay thiên tai). Trong ngắn hạn sự phát triển kinh tế làm
cho người dân thấy chính quyền cũng được việc và không thấy nhu cầu đòi hỏi
thay đổi chế độ.
Mặt khác sự phát
triển kinh tế giúp cho các lực lượng đối lập có phương tiện ra đời và tối hậu
tranh chấp quyền hành chính trị với chính phủ, vì sự phát triển kinh tế làm cho
nhiều cá nhân có thì giờ, có sự hiểu biết và tiền bạc để làm chính trị và thúc đẩy
tiến trình dân chủ hoá.
Cho đến lúc này,
các nhà hoạch định chính sách tây phương và các chuyên viên về phát triển vẫn
tin vào lý thuyết của ông Seymour Martin Lipset rằng dân chủ sẽ theo gót của sự
phát triển và các nhà độc tài không có cách gì chận đứng sự song hành này. Nhưng ít ai để ý đến ghi chú của ông Lipset rằng tiến trình này không
phải là một tiến trình tất yếu. Nó đã đúng tại Tây âu
vì nhờ hoàn cảnh đặc biệt tại đó.
Những người theo thuyết của ông Lipset cũng quên rằng các nhà độc tài không
ngồi yên nhìn thời cuộc, trái lại họ biết đặt ra những quy luật và những định
chế chính trị có lợi cho họ (thí dụ như đảng Cộng sảnViệt 
Để giải thích bằng cách nào các nhà độc tài dìm các trào lưu dân chủ
chúng ta cần hiểu thế nào là “phối hợp
chiến lược” (strategic coordination). Phối hợp
chiến lược, một danh từ trong khoa Khoa học Chính trị (political science) là
một số hoạt động đối lập phải làm để tranh thủ quyền hành chính trị. Thí dụ như phổ biến thông tin, tuyển mộ và tổ chức nhân sự, chọn người
lãnh đạo và hoạch định đường lối. 
Trong một nước đang phát triển, thành thị được mở mang, kỹ thuật và
hạ tầng kiến trúc vững chắc, giáo dục được cải tiến giúp cho sự thông tin và
tuyển mộ được dễ dàng. Biết vậy các nhà độc tài sẽ bóp chẹt sự “phối hợp chiến lược” của đối
lập, thế nào để những biện pháp này không ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển
kinh tế.
Hãy xét một vài trường hợp trong ba năm qua. Trung quốc thỉnh thoảng cho
chận các bản tin bằng Anh ngữ của Google và mới đây áp lực hãng Microsoft chận các
danh từ như “freedom” và “democracy” trong các software dùng bởi những người chơi blog để trao đổi ý tưởng với nhau. Trước đây Trung quốc đã dùng trăm
phương nghìn cách để hạn chế việc xử dụng internet
đến độ thành lập một đội công an có khả năng chuyên môn
lo việc chận các cổng internet từ nước
ngoài. Tại Liên bang Nga tổng thống Valdimir Putin cho
kiểm soát chặt chẽ các đài truyền hình. Năm 2003 ông cho bắt
nhốt nhà doanh nhân Mikkhail Khodorkosky, người từng công khai chỉ trích ông.
Tháng 12 năm 2004, tổng thống Hugo Chavez của 
Đó là những lĩnh vực trấn áp nhà độc tài biết sẽ làm cho đối lập khó
tổ chức và phối hợp hành động với nhau nhưng không ảnh hưởng nhiều đến sự phát
triển kinh tế. Trong khi đó nhà cầm quyền đầu tư rộng rãi vào
những lĩnh vực giúp phát triển kinh tế (mà đối lập không khai thác được gì) như
chuyên chở công cọng, dịch vụ y tế, giáo dục cấp trung, và quốc phòng.
Nhìn lại chúng
ta thấy có một thời kỳ các chính quyền độc tài đã kềm hãm mọi hoạt động để cho đối
lập bó tay và nhận ra rằng kinh tế quốc gia bị suy sụp.
Đó là trường hợp xẩy ra tại hầu hết các nước Á châu và Phi châu
cho đến thập niên 1980 (trong đó có Việt 
Trên nguyên tắc
có bốn lĩnh vực tối cần cho hoạt động của đối lập là quyền chính trị, nhân quyền
theo nghĩa rộng, tự do báo chí và giáo dục cao cấp là
bị các chính quyền độc tài chèn ép gắt gao nhất, nhất là quyền tự do báo chí.
Quyền chính trị
bao gồm quyền tự do ngôn luận và tự do lập hội và quyền biểu tình ôn hòa. Nhân
quyền theo nghĩa rộng gồm quyền không bị bắt bớ trái phép, quyền ra tòa nếu bị
bắt giữ, quyền không bị kỳ thị vì lý do tôn giáo, chủng tộc, giới tính, quyền
không bị xâm phạm thể xác và quyền đi lại. Những quyền này giúp đối lập bảo vệ
nhân sự và lực lượng khi bị đàn  áp. Quyền tự do báo chí giúp đối lập
thông tin, tổ chức và gây phong trào. Sau cùng quyền được hấp
thụ giáo dục cao cấp giúp đối lập đào tạo nhân tài.
Một cuộc nghiên
cứu (của hai tác giả *) trong thời gian từ 1970 đến 1999 cho thấy các chính quyền
độc tài, do hiểu biết sự vận dụng của đối lập, đã thẳng tay tước bỏ quyền chính
trị, nhân quyền theo nghĩa rộng, và bịt miệng báo chí, trong khi đầu tư rộng rãi
vào các mặt giáo dục trung cấp, giao thông và y tế. Cho nên chúng ta sẽ không ngạc
nhiên khi thấy hai chính quyền độc tài nhất trên thế giới hiện nay là Cuba và Bắc
Hàn thì tại Cuba có một hệ thống y tế công cọng gần như hoàn hảo, trong khi tại
Bắc Hàn 95% dân đều biết đọc biết viết. 
Cái thực tế “phát triển chưa
chắc dẫn tới dân chủ” giúp những nhà hoạch định chính sách tại Hoa Kỳ và các
nước dân chủ tiên tiến rút ra ba hệ luận.
Thứ nhất, thúc đẩy phát triển kinh tế tại các nước đang mở mang không
phải là cách tốt nhất để thực hiện dân chủ. Các nhà độc
tài hiểu rằng phát triển kinh tế có thể đe dọa chế độ của họ nhưng họ cũng biết
họ có nhiều phương cách để trì hoãn sự đe dọa một cách hiệu quả. Họ không
cho đối lập những phương tiện để hoạt động như tước bỏ quyền chính trị, nhân
quyền, quyền tự do báo chí để làm mất tinh thần của đối lập, đồng thời ban bố
nhiều quyền lợi cho giới doanh thương và các tướng lãnh để giới này ủng hộ chế độ.
Hệ luận thứ hai là các nhà hoạch định chính sách nên biết muốn thúc
đẩy dân chủ qua viện trợ cần đòi hỏi cái gì nơi người nhận viện trợ. Thí dụ như Ngân Hàng Thế Giới
khi cho vay một món tiền với điều kiện quốc gia vay tiền phải đầu tư vào các kế
hoạch xây dựng hạ tầng cơ sở, y tế và giáo dục trung cấp với tin tưởng rằng tiền
cho vay đó giúp phát triển kinh tế, từ đó dẫn đến dân chủ là sai lầm. Nói chung chính sách ngoại viện như đang được áp dụng chỉ làm
cho nhà độc tài vững mạnh hơn. Cho nên các khoản tiền cho vay dù cho dự án nào
cũng cần kèm theo những điều kiện như bảo đảm quyền chính
trị, nhân quyền và quyền tự do báo chí, và giáo dục cao cấp cho người dân. 
Hệ luận thứ ba liên quan đến tình hình Trung đông. Người ta thường cho rằng cuộc
bầu cử đầu năm nay tại Iraq, Syria rút quân ra khỏi Liban, các cuộc bầu cử sắp
tới tại Liban, Saudi Arabia và Ai Cập là những dấu hiệu dân chủ đang ló dạng tại
đó. Tuy nhiên cần thực tế một chút. Các chế độ độc tài
ngự trị tại Saudi Arabia, Ai Cập và Leban suốt 50 năm qua vẫn còn đó. Muốn đo lường
dân chủ tại đó cần đặt các câu hỏi sau và trả lời một cách nghiêm chỉnh: Truyền
thông được kiểm soát như thế nào? Người dân có quyền biểu tình
bày tỏ ý kiến phản đối chính phủ không? Những điều đó mới thật là con đường
dẫn tới dân chủ, chứ nếu chỉ có bầu cử kiểu “đảng cử dân bầu” thì đó chưa phải
là dân chủ.
Chừng nào người
dân chưa có quyền chính trị, chưa được hưởng nhân quyền một cách rộng rãi, chưa
có tự do báo chí, chừng đó Hoa Kỳ, Liên hiệp Âu châu, các nước giàu có khác và
các cơ sở tài chánh thế giới cần tiếp tục gây áp lực./.
Trần Bình 
                     
| Trần Bình Nam | http://www.vnet.org/tbn |