KHẢ NĂNG CHUYỂN HƯỚNG
TRONG QUAN HỆ VIỆT MỸ
Trần Bình 
            Quan hệ
Việt-Mỹ là một vấn đề tế nhị vì những trở ngại về tình cảm và lịch sử. Hai nước từng đánh nhau, binh sĩ tử nạn của hai bên vẫn chưa tìm ra
hết, vết tích bom đạn vẫn còn trên đất nước Việt 
Trước đây nếu nói đến quan hệ
Việt Mỹ người ta hàm ý quan hệ về sự tìm kiếm quân nhân còn trong danh sách mất
tích hay quan hệ trợ giúp nhân đạo. Xa hơn là quan hệ mậu dịch, và xa hơn chút
nữa là quan hệ ngoại giao theo mô thức bình thường, không thân, không sơ. Trong
tinh thần đó, từng bước một, năm 1994 Hoa Kỳ bỏ cấm vận và năm 1995 thiết lập
bang giao với Việt Nam. Năm 2000 Việt 
Cho đến rất gần đây không ai nghĩ
có thể có một quan hệ quân sự giữa Việt Nam và Hoa kỳ, mặc dù tháng 3 năm 2000
bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ William Cohen đã thực hiện một chuyến thăm viếng
thiện chí Việt Nam, và tháng 11 năm đó tổng thống Clinton và gia đình cũng đã
đến thăm Hà Nội trước khi rời chức vụ tổng thống.
            Nhưng cách
đây hai tháng có tin đồn tướng Phạm Văn Trà, bộ trưởng quốc phòng Việt 
Ông Lê Dũng nói rằng: “Nếu
cuộc thăm viếng Hoa Kỳ được thực hiện thì đây là cuộc thăm viếng chính thức đầu
tiên của một bộ trưởng quốc phòng Việt 
            Nếu chuyến
đi được thực hiện thì đây là một chuyển biến quan trọng chẳng những trong bang
giao Việt – Mỹ mà còn là một chuyển hướng quan trọng của Việt 
            Cũng theo
bản tin của AFP nói trên thì một nhà ngoại giao Âu châu có nhiệm sở tại Hà Nội
nhận xét rằng dù muốn dù không Việt Nam cũng đang chơi bài với hai đối thủ lớn
là Hoa Kỳ và Trung quốc, và đã đến lúc phải đánh một nước bài. Và theo một
tướng lãnh của Hà nội có mặt tại Sài gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 (muốn dấu
tên) thì việc gởi tướng Trà chính thức đi Hoa Kỳ là một tính toán quân sự có
tính cách chiến lược của Hà Nội. Viên tướng này nói rằng trang bị của lực lượng
quân sự Việt Nam càng lúc càng xuống cấp so với các nước chung quanh, và đã đến
lúc phải tìm một cách gì đó để cải tiến trước khi quá muộn. Cải tiến để làm gì
ông ta không nói nhưng ai cũng hiểu để Việt Nam có thế đương đầu với áp lực
càng ngày càng gia tăng của Trung quốc.
            Tình hình
trong vùng Á châu Thái Bình Dương đã thay đổi nhiều trong 28 năm qua từ khi
miền Nam sụp đổ. Lúc đó Trung quốc còn ngỗn ngang với cuộc Cách mạng Văn hóa,
kinh tế yếu kém nên không phải là một thế lực đáng quan tâm. Hoa Kỳ tuy rút ra
khỏi Việt Nam sau Hiệp định Paris ký năm 1973, và mất thế đứng tại tây Thái
Bình Dương nhưng các nước Đông nam Á đã không sụp đổ theo nên vẫn có thể tạo
một thế cân bằng chiến lược nào đó với Liên bang Xô viết qua những đồng minh
tại chỗ như Nhật Bản, Úc châu và Hiệp hội các nước Đông nam Á (Asean). 
Nhưng một thập niên sau đó, Đặng
Tiểu Bình mở cửa, canh tân xứ sở, và bước vào thập niên cuối của thế kỷ 20
Trung quốc trở thành một quốc gia vững mạnh về cả hai phương diện kinh tế và
quân sự. Và ai cũng có thể thấy Trung quốc có mộng siêu cường, muốn vươn lên
thành một lực lượng có khả năng kình chống với Hoa Kỳ trong những thập niên
tới. Người Trung hoa nào cũng ôm ấp giấc mộng này, nên chế độ chính trị (cộng
sản hay không cộng sản) tại đó sẽ không thay đổi đường hướng chiến lươc này của
Trung quốc. 
Trong bối cảnh mới của đầu thế kỷ
21, Trung quốc cố giữ thế cân bằng tại Bắc Á châu với Liên bang Nga, Hoa Kỳ và
Nhật Bản. Trung quốc có khả năng và có quyền lợi duy trì sự ổn định tại đó qua
sự kềm chế tham vọng nguyên tử của Bắc Hàn và tự kềm chế không gây chiến với
Đài Loan (trong giới hạn Đài Loan làm gì thì làm nhưng không tuyên bố là một
nước độc lập tách rời vĩnh viễn ra khỏi Trung quốc). Nhưng Trung quốc sẽ không
tự chế như vậy trong vùng Đông nam Á châu. Ở đây có một khoảng trống quyền lực
sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ. Khối Asean tuy có khả năng kinh tế với
Singapore, Thái Lan, Mã Lai Á, và khả năng quân sự với Indonesia, Việt Nam
nhưng không ăn thua gì trước sức mạnh và tham vọng của Trung quốc phóng ảnh
hưởng của mình về phương nam. 
Để kiểm soát đường biển từ Ấn Độ
Dương lên, chiếm kho dầu hỏa dưới lòng biển, và xử dụng quần đảo chiến lược
Trường Sa, Bắc Kinh – trong đầu thập niên 1990 - đơn phương tuyên bố biển Đông,
vùng biển nằm giữa đảo Hải Nam, Việt Nam, Phi Luật Tân và Indonesia thuộc về
Trung quốc. Việt Nam và khối Asean bày tỏ sự phản đối, nhưng Trung quốc cho
thấy họ xem sự công bố chủ quyền đó là một mục tiêu chiến lược, và họ sẽ không
từ bỏ một hành động gì để đạt mục tiêu trên. Từ thập niên 1980 áp lực quân sự
và kinh tế của Trung quốc càng ngày càng thấy rõ trong vùng. Bằng chứng sau
cuộc đụng độ giữa hải quân Việt Nam và Trung quốc năm 1988 để giành mấy hòn đảo
trong quần đảo Trường Sa, Việt Nam thua nhưng người ta không thấy Việt Nam nhắc
nhỡ đến vấn đề chủ quyền này tại các diễn đàn quốc tế. Mặt khác, năm1999 và năm
2000 Việt Nam đã phải nhượng bộ Trung quốc để ký thoả ước biên giới nhường cho
Trung quốc một số cao điểm chiến lược dọc biên giới và chia lại vùng biển giữa
vịnh Bắc Việt và đảo Hải Nam có lợi cho Trung quốc.
Trong toan tính bành trướng của
Trung quốc, quyền lợi của Hoa Kỳ và Việt Nam đều bị xâm phạm gián tiếp hay trực
tiếp. Hoa Kỳ không thể để cho Trung quốc kềm chế con đường giao thông ngắn nhất
từ Ấn Độ Dương lên Bắc thái Bình Dương qua biển Đông đe dọa vùng chiến lược tây
Thái Bình Dương, trong khi Việt Nam cũng không thể để tài nguyên thiên nhiên
dưới lòng biển lọt trọn vào tay Trung quốc, chưa nói quần đảo chiến lược Trường
Sa che sườn phía đông của Việt Nam. Trong bối cảnh đó một quan hệ mới giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ cần phải được tính toán lại. Đó có thể là lý do của chuyến đi
thăm Hoa Kỳ của bộ trưởng Phạm Văn Trà.
Vì tính cách quan trọng của cuộc
thăm viếng, sẽ có nhiều thế lực muốn phá hỏng chuyến đi của tướng Phạm Văn Trà.
Trước hết là Trung quốc và thành phần thân Trung quốc trong nội bộ đảng CS Việt
Nam. Thành phần này xem chơi với Trung quốc là một nước đồng chủ thuyết thì
được an toàn hơn chơi với Hoa Kỳ là quốc gia thành phần này nghi ngờ chỉ muốn
làm suy yếu quyền hành của đảng CS Việt Nam bằng diễn biến hòa bình. Đa số
thành phần tướng lãnh trong quân đội Việt Nam, trái lại, nghĩ rằng Trung quốc
là một đe dọa lâu dài, và chơi với Hoa Kỳ giúp Việt Nam an toàn hơn. Về phía
Hoa Kỳ bệnh gọi là “hội chứng Việt Nam” vẫn còn trong một số thành phần
cực hữu của Quốc hội Hoa Kỳ và thành phần này không thấy có gì hấp dẫn trong
quan hệ quân sự với Việt Nam khi cái bóng của Trung quốc chưa đe dọa quyền lợi
trực tiếp của Hoa Kỳ. Mặt khác nếu các nhà chiến lược Hoa Kỳ thấy giúp đỡ Việt
Nam về mặt quân sự có lợi về mặt chiến lược thì các nhà lãnh đạo chính trị cũng
chưa thấy đó là một công việc cấp bách, nhất là khi Hoa Kỳ đang phải đương đầu
với cuộc chiến tranh chống khủng bố toàn cầu và cuộc chiến du kích tại Iraq. 
Nhưng đối với Việt Nam thì khác.
Các lối đi để lựa chọn không nhiều. Lối thứ nhất là không làm gì cả, và đặt vận
mạng đất nước vào vui buồn của Trung quốc. Truyền thống và lịch sử của Việt Nam
không cho phép người lãnh đạo chọn lối đi này. Lối thứ hai là tự canh tân kinh
tế để xây dựng một lực lượng quân sự đủ mạnh. Muốn chọn lối này lãnh  đạo đảng CS phải khai thác toàn bộ sức mạnh
tiềm ẩn của quốc dân, và điều kiện cần thiết là dân chủ hóa xứ sở. Đây là điều
người lãnh đạo cộng sản chưa sẵn sàng làm. Mà nếu họ muốn làm cũng không theo
kịp sự lớn mạnh nhanh chóng của lực lượng quân sự của Trung quốc. Chỉ còn lối
thứ ba. Hợp tác với một thế lực mạnh có cùng quyền lợi. Lực lượng nào? Asean
còn quá yếu và quá rụt rè. Liên bang Nga không có quyền lợi cần bảo vệ tại đó,
hơn nữa cũng không còn là đối trọng của Trung quốc như trong những thập niên
1960, 1970. Vậy chỉ còn lại Hoa Kỳ.
Hy vọng rằng chuyến thăm viếng
chính thức của bộ trưởng quốc phòng Phạm Văn Trà – nếu thực hiện – sẽ mở đầu
một kỷ nguyên hợp tác chiến lược giữa hai nước vốn là cừu địch của nhau.
Trần Bình Nam
Oct. 5, 2003
http//www.vnet.org/tbn
| Trần Bình Nam | http://www.vnet.org/tbn |