THẾ GIỚI
HAI TUẦN QUA
(
         Trao đổi về chuyện Thế Giới Hai Tuần Qua giữa
phóng viên Quang Dũng (QD) của đài TN/PHVN và ông Trần Bình 
            Nội dung này được phát sóng ngày Thứ Năm, 05 tháng 5, 2005
vào lúc 10:10PM giờ Hoa Thịnh Đốn trên làn sóng đặc biệt của đài Việt Nam Hải
Ngoại (VNHN), và có thể nghe lại sau đó qua Web site: http://www.phvn.org
 Quang Dũng (QD):  Xin chào ông Trần Bình 
Trần Bình 
            Tại Iraq  thủ tướng
Jaafari đã thành lập xong chính phủ. Quốc hội lâm thời đã biểu quyết chấp thuận
hôm thứ Năm 28 tháng 4 và đã tuyên thệ nhậm chức hôm Thứ Ba 3 tháng 5. Đây là
một chặng đường quan trọng trong nỗ lực dân chủ hóa Iraq của Hoa Kỳ. Chặng
đường tới là làm sao rút quân ra khỏi Iraq mà không mất quyền lợi chiến lược
tại Trung đông. Thế giới cũng quan tâm đến chuyến thăm viếng Do Thái của tổng
thống Nga Vladimir Putin vì đây là chuyến viếng thăm Do thái lần đầu tiên của
một lãnh tụ chính trị Nga. Ngoài ra là việc Trung quốc tiếp đón một phái đoàn
của Trung hoa Quốc dân đảng của Đài Loan, và việc Tổ chức các nước Mỹ châu vừa
bầu được tân Tổng thư ký.
Để kết thúc chương trình TG2TQ
tôi sẽ hầu chuyện thính giả về cuộc thám hiểm Bắc Cực mới đây của bà Matty
McNair. 
QD: Xin ông nói về chính phủ Iraq vừa được quốc hội thông qua. Và sau khi Iraq có chính phủ mới Hoa Kỳ có bao nhiêu giải pháp rút
lui trước mắt.
TBN: Chính phủ mới gồm 32 bộ, trong đó người Shite chiếm 17 ghế,
Kurds chiếm 8 ghế và người Sunni chiếm 6, một ghế cho một dân biểu Thiên
chúa  giáo. Và có 6 phụ nữ. Nhưng qua
cung cách Quốc hội thông qua thành phần nội các chứng tỏ các bất hòa nội bộ vẫn
còn sâu đậm. Trong số 274 dân biểu chỉ có 185 người tham dự phiên họp, và các
chức vụ quan trọng như hai Phó thủ tướng, và năm bộ gồm Bộ quốc phòng, Bộ dầu
hỏa, Bộ điện lực, Bộ kỹ nghệ và Bộ nhân quyền vẫn chưa tìm được người. Các ghế
này tạm thời do các nhân vật quan trọng nắm giữ cho đến khi ba phe phái Shite,
Kurds và Sunni chịu thỏa thuận với nhau. Có ba điểm đáng để ý trong thành phần
chính phủ Iraq là không có một nhân vật nào trong đảng của cựu thủ tướng Ayad
Allawi (mặc dù đảng của ông có 40 ghế trong quốc hội) chứng tỏ đảng ông chọn
thế đối lập trong quốc hội. Tin cho biết ông ta đòi 4 ghế bộ trưởng và một phó
thủ tướng trong chính phủ nhưng không được thỏa mãn. Tuy nhiên có 4 bộ trưởng
trong chính phủ trước của ông được giữ lại ở chức vụ cũ là các Bộ ngoại giao,
Bộ kế hoạch, Bộ xây dựng và Bộ giáo dục. Điểm thứ hai là ông Ahmad Chalabi, một
nhân vật thân Hoa Kỳ giữ chức vụ phó thủ tướng, và tạm thời nắm chức bộ trưởng
dầu hỏa. Và ông Bayan Solagh, một người Shite thân Hoa Kỳ khác nắm giữ chức
tổng trưởng nội vụ. Điểm thứ ba là đảng của Muqtada-al-Sadr, một tu sĩ trẻ tuổi
thuộc hệ phái Shite trong năm qua đã xúi dục tín đồ gây xáo trộn tại Iraq có 23
ghế trong quốc hội chiếm được 3 ghế trong chính phủ là các Bộ y tế, Bộ giao
thông và Bộ xã hội.
Quan tâm chính của Hoa Kỳ là rút quân ra hỏi
Iraq, nhưng điều quan trọng hơn là rút lui cách nào mà vẫn bảo đảm một nước
Iraq thân Hoa Kỳ.Vì vậy sẽ không có việc đương nhiên rút  quân. Trong buổi họp báo ngàyThứ Năm 28 tháng
4 tổng thống Bush đã nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ sẽ không đưa ra một lịch trình rút
quân vì làm vậy chỉ có lợi cho phe nổi dậy. Nói cách khác dù
muốn dù không, và dù phải hao tốn tiền bạc và tính mạng binh sĩ Hoa Kỳ cũng
phải gắn liền với sinh mạng của một chính phủ Iraq thân Hoa Kỳ. 
            Giải pháp trước
mắt của Hoa kỳ là giúp đở để tân chính quyền Iraq kiện toàn một nền hành chánh
tốt và một lực lượng quân đội và cảnh sát hữu hiệu để đương đầu với các lực
lượng nổi dậy. Hoa Kỳ không nhất thiết phải chờ dẹp xong quân nổi dậy mới rút
lui. Hoa Kỳ có thể rút lui khi chính quyền mới cho thấy họ có thể sống còn như
một chính quyền dù còn bạo động
QD: Nếu cuộc chiến cứ dằng dai và biến thành nội chiến thì sao?
TBN: Cái quan trọng là chính phủ Iraq thân Hoa Kỳ đứng vững hay
không chứ nội chiến hay không không phải là điều quan trọng. Và trong giải pháp
này Hoa Kỳ có thể sẽ phải trở lại can thiệp nếu chính phủ Iraq thân Hoa Kỳ có
cơ sụp đổ
QD: Ông nói đến điều này làm tôi nhớ đến chiến tranh Việt Nam. Hoa
Kỳ đã giúp chính phủ xây dựng một quân đội VNCH hùng mạnh rồi rút lui. Thế
nhưng khi VNCH sụp đổ Hoa Kỳ không trở lại can thiệp? Vậy có
sự khác biệt nào trong hai trường hợp này?
TBN: Có một sự khác biệt lớn. Tại Việt Nam, Hoa Kỳ rút quân qua
Hiệp ước Paris, và tại đó khoảng thập niên 1970 Hoa Kỳ không còn quyền lợi chiến
lược nào khác nữa sau khi đã phối hợp được Trung quốc để ngăn chận ảnh hưởng
của Liên bang Xô viết phóng về phía Nam Thái Bình Dương. Trái lại tại Iraq nếu
để chính phủ thân Hoa Kỳ tại đó sụp đổ, kho dầu hỏa Trung đông có thể lọt vào
tay những thế lực thù địch với Hoa Kỳ thì đó là điều Hoa Kỳ không thể chấp nhận
được.
QD: Như vậy giải pháp rút quân mà không có gì bảo đảm cho tương lai
không hẳn là thượng sách của Hoa Kỳ.
TBN: Lẽ dĩ nhiên đó không phải là giải pháp thượng sách. Còn một giải pháp nữa là giải pháp mời các nước A Rập đưa quân đến
Iraq.
QD: Các nước A Rập đều phản đối việc Hoa
Kỳ tấn công Iraq, vậy không có lỳ do gì họ lại giúp Hoa Kỳ bằng cách gởi quân
đến.
TBN: Tình hình Iraq có một sự thay đổi căn bản sau cuộc bầu cử ngày
30/1/2005. Đã có  8 triệu người đa số là
người Shite và người Kurds đi bầu, và các cuộc bạo động tại Iraq không còn
thuần túy để chống sự can thiệp Hoa Kỳ mà đang dần biến thành một sự tranh chấp
quyền hành giữa người hồi giáo Shite và Sunni. Trong bối cảnh này khối các nước
A Rập có lợi nếu họ giúp dàn xếp cuộc tranh chấp đó để cho nó không biến thành
một cuộc nội chiến mà sự tàn phá sẽ không có lợi gì cho các nước A Rập về
phương diện ổn định chính trị. Vì vậy việc các nước A
Rập gởi quân đến Iraq để ngăn chận một cuộc nội chiến và bảo dảm quyền tự quyết
của nhân dân Iraq trong khuôn khổ của Hồi giáo là một giải pháp khả dĩ.
QD: Xin ông nói về cuộc thăm viếng của tổng thống Liên bang Nga
Valdimir Putin đến Do thái và tầm quan trọng của nó.
TBN:  Hôm
Thứ Tư 27 tháng 4 tổng thống Nga Putin chính thức thăm viếng Do Thái. Và như
tôi đã nói ở trên đây là chuyến thăm viếng Do thái chính thức đầu tiên của một
nhà lãnh đạo Nga. Muốn thấy sự quan trọng của chuyến thăm viếng cần nhìn lại
vai trò của Liên bang Xô viết tại Trung đông trước khi Liên bang Nga sụp đổ. Từ
năm 1967 khi Do thái tấn công các nước A Rập chính yếu là Ai Cập và Syria, Liên
bang Xô viết bênh vực các nước A Rập đoạn giao với Do Thái thì tình hình chính
trị tại Trung đông phản ảnh một phần của cuộc chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và
Liên bang Xô viết. Hoa Kỳ đứng về phía Do thái, trong khi Liên bang Xô viết
đứng về phía các nước A Rập. Nhưng từ đầu thập niên 1990 sau khi Liên bang Xô
viết sụp đổ thì Liên bang Nga mất chân đứng tại Trung đông, và chính truờng tại
đó được quyết định bởi Hoa Kỳ, như chúng ta đã thấy qua cuộc hai chiến năm 1991
và năm 2003.
Hôm
Thứ Tư 27 tháng 4 tổng thống Nga Putin chính thức thăm viếng Do Thái. Và như
tôi đã nói ở trên đây là chuyến thăm viếng Do thái chính thức đầu tiên của một
nhà lãnh đạo Nga. Muốn thấy sự quan trọng của chuyến thăm viếng cần nhìn lại
vai trò của Liên bang Xô viết tại Trung đông trước khi Liên bang Nga sụp đổ. Từ
năm 1967 khi Do thái tấn công các nước A Rập chính yếu là Ai Cập và Syria, Liên
bang Xô viết bênh vực các nước A Rập đoạn giao với Do Thái thì tình hình chính
trị tại Trung đông phản ảnh một phần của cuộc chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và
Liên bang Xô viết. Hoa Kỳ đứng về phía Do thái, trong khi Liên bang Xô viết
đứng về phía các nước A Rập. Nhưng từ đầu thập niên 1990 sau khi Liên bang Xô
viết sụp đổ thì Liên bang Nga mất chân đứng tại Trung đông, và chính truờng tại
đó được quyết định bởi Hoa Kỳ, như chúng ta đã thấy qua cuộc hai chiến năm 1991
và năm 2003.
            Từ năm 2000 sau
khi lên cầm quyền tại Liên bang Nga, chương trình chính trị của tổng thống
Putin là tái lập uy tín và ảnh hưởng của Liên bang Nga trên thế giới. Việc thăm viếng Do thái và Palestine kỳ này của tổng thống Putin
nằm trong chương trình đó.
QD: Nhưng thế của Hoa Kỳ vẫn còn mạnh tại Trung đông, vậy có chỗ
nào cho Liên bang Nga đặt chân vào?
TBN: Tổng thống Putin đã tìm chỗ khó nhất tại Trung đông là Do thái
để  đặt chân vào. Cho nên thay vì chỉ đến
viếng Ai Cập, tổng thống Putin đến viếng Do thái và Palestine để chứng tỏ rằng
sắp xếp việc Trung đông không phải chỉ có một mình Hoa Kỳ. 
Hoa Kỳ vẫn còn mạnh nhưng cuộc chiến dằng dai tại Iraq cho Hoa Kỳ thấy sức mạnh Hoa Kỳ có giới hạn
không thể giản ra mãi mà không đứt. Mặt khác Hoa Kỳ còn cần Liên bang Nga để
đương đầu với Liên hiệp âu châu, với Bắc Hàn, với Iran. Liên bang Nga tuy còn
yếu nhưng với vốn liếng kỹ thuật cao và phiếu phủ quyết tại Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc Liên bang Nga vẫn có tiếng nói đối với các
vấn đề Âu châu, Iran và Bắc Hàn. Không phải là không có ý
nghĩa khi tại Do thái tổng thống Putin kêu gọi Iran nên tìm cách thuyết phục
thế giới rằng Iran không có ý định chế tạo bom nguyên tử. 
 Hơn nữa
nhìn về lịch sử Do thái và Liên bang Nga có một số vấn đề chung.
Trong thế chiến II nhờ Liên bang Xô viết, quân Đồng minh mới thắng Đức quốc xã
nhanh chóng và chấm dứt thảm nạn holocaust của người Do thái. Sau khi thế chiến
II chấm dứt nước Do thái thành lập, Liên bang Xô viết đã từng ủng hộ nước này
cho đến năm 1967. Sau khi Liên bang Xô viết 
sụp đổ Liên bang Nga và Do thái tái lập bang giao và đã có hơn 1 triệu
người Nga gốc Do thái trở về Do thái sinh sống. Và tổng thống Putin hiểu rằng
nếu muốn có tiếng nói tại Trung đông như từng có trước năm 1990 thí dụ như giúp
đóng góp vào việc giải quyết cuộc tranh chấp giữa Do thái và Palestine thì
thông qua ảnh hưởng với Do thái hơn là thông qua ảnh hưởng của các nước A Rập. 
            
QD: Mới đây có tin ông Liên Chiến, chủ tịch Trung hoa Quốc Dân Đảng
tại Đài Loan đã đến viếng Bắc kinh và được chính ông Hồ Cẩm Đào chủ tịch nước
kiêm chủ tịch đảng Cộng sản Trung quốc tiếp đón. Sự việc này có ý nghĩa như thế
nào?
TBN: Vâng, hôm Thứ Sáu 29 tháng 4 ông Liên Chiến, chủ tịch Trung
hoa Quốc Dân Đảng và một phái đoàn đã đến Bắc Kinh và được tiếp đón trọng thể.
Sự việc này ngoài dụng tâm chính trị của Bắc Kinh ai cũng có thể thấy được là
làm yếu thế chính trị của tổng thống Trần Thủy Biển, người chủ trương độc lập
cho Đài Loan,Trung quốc còn có thể có dụng tâm khác.
            
QD: Dụng tâm khác của Trung quốc là dụng tâm gì?
 
TBN: Trung hoa Quốc dân đảng là đảng cầm quyền tại Đài Loan từ năm
1949 khi bị Mao đuổi chạy ra đó cho đến năm 2000 mới trở thành đảng đối lập.
Trung hoa Quốc dân đảng không chủ trương Đài Loan độc lập mà chủ trương thống
nhất Trung quốc lục địa dưới một chế dộ dân chủ. Đảng CS Trung quốc và Trung
hoa Quốc dân đảng là hai đảng đều chống Nhật trong hai thập niên 1930, 1940,
nhưng cũng tranh giành quyền lực chính trị ráo riết lẫn nhau. Năm 1945 Mao và
Tưởng giới Thạch chủ tịch Trung hoa Quốc dân đảng gặp nhau tại Trùng Khánh để
thương lựng một giải pháp ngưng bắn nhưng không thành. Và kể từ đó đến cuộc gặp
gỡ giữa hai đại diện đảng tuần qua là đúng 60 năm. Giữa hai đảng có một mối
quan hệ lâu dài, và bây giờ Trung hoa Quốc Dân đảng là đảng đối lập tại Đài Loan
cho nên khi tiếp ông Liên Chiến Trung quốc có thể có dụng tâm mớm ý bước đầu
chấp nhận đối lập ở một mức độ nào đó. Vì theo lẽ thông thường Trung quốc xem
Đài Loan là một tỉnh của Trung quốc, cho nên tiếp ông Liên Chiến có nghĩa là
tiếp đối lập của Trung quốc
QD: Vậy ông có nghĩ Trung quốc sẽ chấp nhận cho Trung hoa Quốc dân
đảng hoạt động tại Trung hoa lục địa và sẽ có bầu cử tự do không?
TBN: Tôi nghĩ nếu Trung quốc chọn hướng này thì họ cũng chưa dễ
chấp nhận bầu cử tự do mà chỉ chấp nhận một số ghế giới hạn của đối lập tại
quốc hội của Trung quốc để đối lập có tiếng nói nhưng đảng CS Trung quốc vẫn
kiểm soát chính sách và đường lối.
QD: Nếu Trung
quốc chọn hướng thứ hai thì Việt Nam xưa nay vẫn theo
gót Trung quốc có bắt chước và chấp nhận một thành phần đối lập tại Việt Nam,
thí dụ như Việt Nam quốc dân đảng không? 
TBN: Việt Nam
thường theo gót Bắc Kinh, nhưng ở đây có một khác biệt
căn bản. Là người Trung quốc dù cộng sản hay không cộng sản đều có một mẫu số chung là biến Trung quốc thành một siêu cường trước cả ưu
tiên dân chủ hóa, vì vậy họ có thể nhượng bộ lẫn nhau. Trong
khi người Cộng sản Việt Nam không có chương trình gì khác hơn là bám lấy quyền
hành để bảo vệ quyền lợi trong khi đối lập chỉ có một chương trình là dân chủ
hóa là ưu tiên một. Hai ưu tiên này khó thể gặp nhau,
vì vậy nếu Việt Nam muốn bắt chuớc Trung quốc cũng không bắt chước được.
QD: Ông có gì
nói về tình hình châu Mỹ trong hai tuần qua? 
TBN: Hôm Thứ
Hai 2 tháng 5, tại trụ sở của Tổ chức các nước châu Mỹ (tức Organization of American
States, viết tắt là OAS) tại Hoa Thịnh Đốn ông José Miguel Insulza, bộ trưởng
nội vụ của Chile đã được Tổ chức OAS bầu vào chức vụ Tổng thư ký của Tổ chức
với số phiếu 31/34. Đây là lần thứ hai một người Chile giữ chức vụ Tổng thư ký tổ chức OAS. Một người Chile khác
là ông Carlo Davila từng giữ chức vụ này trong hai năm 1954-1955. Biến
chuyển này không phù hợp với quyền lợi của Hoa Kỳ chứng tỏ khối OAS muốn đi một
con đường độc lập hơn. 
QD: Xin ông cho
thính giả biết thêm về Tổ chức OAS.
TBN: Khối OAS
được chính thức thành lập năm 1948 dưới 
sự bảo trợ của Hoa Kỳ trụ sở đặt tại Hoa Thịnh Đốn để trông coi về tiến
triển dân chủ và nhân quyền cũng như cùng nhau kiểm soát nạn buôn lậu ma túy và
vũ khí trên lục địa Mỹ châu gồm cả Canada và các nước trong vùng biển
Caribbean. Hiện Tổ chức OAS có 34 thành viên. Năm 1962 Cuba
xin gia nhập nhưng Hoa Kỳ không chấp thuận. Chức vụ quan trọng nhất là
Tổng thư ký nhiệm kỳ 5 năm do các ngoại trưởng các
nước Mỹ châu bầu chọn. Từ năm 1948 đến nay Hoa Kỳ có ảnh hưởng gần như tuyệt
đối trong việc bầu chọn Tổng thư Ký mặc dù Hoa Kỳ chưa
bao giờ nắm giữ chức vụ này.
QD: Tại sao
việc bầu ông José Miguel Insulza của Chile không phù hợp với quyền lợi của Hoa
Kỳ?
TBN: Trong cuộc
bầu bán lần này, nguyên thủy Hoa Kỳ ủng hộ 
ông Luis Ernesto Derbez, bộ trưởng ngoại giao của Mexico, nhưng trong
cuộc bỏ phiếu đầu tiên ngày 11 tháng 4, số phiếu của hai ứng cử viên chia đều
17/17, và trong suốt tháng 4 Hoa Kỳ đã nỗ lực vận động phiếu cho ông Derbez
nhưng không có kết quả, trong khi Venezuela là nước đang hiềm khích với Hoa Kỳ
lại vận động cho ứng cử viên của Chile và có kết quả. Tuần
vừa qua Paraguay trong lần bỏ phiếu trước đã bỏ phiếu cho Mexico cho biết sẽ bỏ
phiếu cho Chile. 
QD: Thế Hoa Kỳ
chịu thua Venezuela hay sao?
TBN: Trước tình
huống bất khả kháng này bà Condoleezza Rice, bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đã dàn
xếp một sự thỏa thuận rằng Hoa Kỳ sẽ không vận động nữa và ông Derbez của
Mexico sẽ rút tên ra khỏi danh sách ứng cử viên để cho ông Insulza đắc cử với
điều kiện ông Insulza tuyên bố Tổ chức OAS sẽ cứng rắn với bất cứ quốc gia
thành viên nào áp dụng lề lối cai trị không dân chủ (điều này nhắm vào tổng
thống Hugo Chavez của Venezuela) và hứa OAS sẽ làm hết sức mình để thúc đẩy dân
chủ và nhân quyền tại Cuba.  Ông Insulza
đã tuyên bố hai điều trên trong một cuộc họp báo có sự hiện diện của bà Rice và
ông Derbez hôm Thứ Sáu 29 tháng 4.
QD: Như vậy Hoa
Kỳ vẫn còn duy trì được ảnh hưởng đối với Tổ chức OAS
TBN: Đúng vậy,
Hoa Kỳ còn ảnh hưởng đối với Tổ chức OAS vì OAS có 34 nước nhưng Hoa Kỳ cung
cấp 60% ngân sách điều hành. Ngân sách hằng năm khoảng 75 triệu mỹ kim. 
QD: Xin ông nói về vụ thám hiểm Bắc cực
TBN: Vào 6:32 sáng ngày Thứ Ba 26/4/2005 một đoàn thám hiểm 5 người
gồm 2 người Anh, một người Canada, một người Nam Phi và cầm đầu bởi một phụ nữ
người Mỹ, bà Matty McNair đã đến Bắc cực sau 37 ngày đi trên xe kéo lết trên
băng giá bởi một đoàn chó. Cuộc thám hiểm này đạt kỷ lục của thế giới. Chuyến
thám hiểm mới nhất cũng bằng xe do chó kéo được thực hiện năm 2000 và kéo dài
43 ngày bởi một đoàn thám hiểm người Canada. Kỷ lục trước đây do ông Robert
Peary thực hiện năm 1909 cũng trong 37 ngày nhưng dài hơn 5 giờ đồng hồ.
            
QD: Xin ông cho biết chi tiết về cuộc thám hiểm của bà Matty
McNair?
TBN: Đoàn thám hiểm 5 người cầm đầu bởi bà Matty McNair đã lên
đường ngày 20 tháng 3 từ đảo Ellesmere, một hòn đảo nằm ở mõm cực bắc Canada
cách xa Bắc cực 800 km. Bà Matty McNair 53 tuổi đã từng đến Bắc cực một lần và
thám hiểm Nam Cực 3 lần. Phương tiện di chuyển là xe gỗ do 16 con chó kéo, và
dọc đường đến Bắc cực được ngừng để tiếp tế tại bốn trạm. Vị trí được xác định
bởi GPS dùng vệ tinh nhân tạo nên hết sức chính xác, không như chuyến thám hiểm
của ông Rorbert Peary tuy cũng 37 ngày nhưng cho đến nay vẫn còn là một nghi
vấn.
QD: Người ta nghi vấn những gì về chuyến thám hiểm của ông Robert
Peary?
TBN: Người ta nghi vấn vì cho rằng vào năm 1909 phương tiện định vị
trí còn thô sơ nên không chắc ông Peary thực sự đã đến Bắc cực. Trong sổ ghi
hành trình của ông Peary so lại với bây giờ cũng không chính xác là nằm đúng
trên đường đến Bắc Cực. Người ta còn nghi ngờ rằng ông Peary không thể đi trong
37 ngày như ông đã tuyên bố. Nhưng sự nghi ngờ về thời gian có lẽ xem như được
giải quyết sau chuyến thám hiểm của bà McNair vì bà cũng đi trong 37 ngày. Tuy
nhiên sự nghi ngờ ông Peary có thật đến Bắc cực chưa thì vẫn còn.
QD: Chuyến thám hiểm có ý nghĩa gì?
TBN: Tôi nghĩ ý nghĩa lớn nhất là sức người trước thiên nhiên.
Văn  minh và các phương tiện kỹ thuật cho
con người ngự trị thiên nhiên, và dần dần con người cảm thấy mình thắng thiên
nhiên do kỹ thuật chứ con người vẫn yếu đuối trước thiên nhiên. Các cuộc mạo
hiểm như vượt biển bằng tàu buồm, vượt không gian bằng khí cầu, leo núi cao
hoặc vượt băng tuyết là những nỗ lực để chứng tỏ bắp thịt con người vẫn có khả
năng vượt thắng thiên nhiên. Những cuộc mạo hiểm này nhắc nhỡ giới trẻ sự quan
trọng của chí phiêu lưu, vì không có óc phiêu lưu con người sẽ ngừng lại ở
những gì mình có nếu không muốn nói sẽ đi thụt lui./.
 

| Trần Văn Sơn | http://www.vnet.org/tbn |